Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy tiết tập làm văn và trả bài tại lớp

Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy tiết tập làm văn và trả bài tại lớp

Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh các kĩ năng sinh sản ngôn bản. Nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong dạy học tiếng mẹ đẻ bởi vì:

 - Thứ nhất, đây là phân môn sử dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kĩ năng tiếng Việt mà các phân môn Tiếng Việt khác: Học vần, Tập Viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu đã hình thành.

 - Thứ hai, phân môn TLV rèn cho học sinh kĩ năng sinh sản ngôn ngữ, nhờ đó tiếng Việt không chỉ được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ tổng hợp để giao tiếp. Như vậy, phân môn TLV đã thực hện mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất của dạy học tiếng mẹ đẻ là dạy HS sử dụng được tiếng Việt để giao tiếp, tư duy, học tập.

Trong chương trình tiểu học mới,các bài làm văn gắn với chủ điểm của đơn vị học. Song song với các tiết làm văn luyện nói, luyện viết thì tiết Tập làm văn trả bài có một vị trí quan trọng vì: giờ trả bài có mục đích rèn cho học sinh kĩ năng kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh bài viết. Đây là kĩ năng quan trọng trong hoạt động giao tiếp. Kĩ năng kĩ năng đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt, sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt. Để có kĩ năng này , học sinh phải cần tập nhận xét văn bản nói hay viết của bạn, tự sửa chữa bài viết ở lớp, rút kinh nghiệm và tự chữa( hoặc viết lại) bài văn đã được GV chấm, luyện tập, hình thành kĩ năng và thói quen tự điều chỉnh, tự học tập dể luôn luôn tiến bộ.Đây chính là khâu cuối cùng để hoàn thiên kĩ năng làm văn của học sinh.

 

doc 20 trang Người đăng huong21 Lượt xem 1289Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy tiết tập làm văn và trả bài tại lớp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lí luận 
Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh các kĩ năng sinh sản ngôn bản. Nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong dạy học tiếng mẹ đẻ bởi vì: 
 - Thứ nhất, đây là phân môn sử dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kĩ năng tiếng Việt mà các phân môn Tiếng Việt khác: Học vần, Tập Viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu đã hình thành.
 - Thứ hai, phân môn TLV rèn cho học sinh kĩ năng sinh sản ngôn ngữ, nhờ đó tiếng Việt không chỉ được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ tổng hợp để giao tiếp. Như vậy, phân môn TLV đã thực hện mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất của dạy học tiếng mẹ đẻ là dạy HS sử dụng được tiếng Việt để giao tiếp, tư duy, học tập. 
Trong chương trình tiểu học mới,các bài làm văn gắn với chủ điểm của đơn vị học. Song song với các tiết làm văn luyện nói, luyện viết thì tiết Tập làm văn trả bài có một vị trí quan trọng vì: giờ trả bài có mục đích rèn cho học sinh kĩ năng kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh bài viết. Đây là kĩ năng quan trọng trong hoạt động giao tiếp. Kĩ năng kĩ năng đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt, sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt. Để có kĩ năng này , học sinh phải cần tập nhận xét văn bản nói hay viết của bạn, tự sửa chữa bài viết ở lớp, rút kinh nghiệm và tự chữa( hoặc viết lại) bài văn đã được GV chấm, luyện tập, hình thành kĩ năng và thói quen tự điều chỉnh, tự học tập dể luôn luôn tiến bộ.Đây chính là khâu cuối cùng để hoàn thiên kĩ năng làm văn của học sinh. 
 2. Cơ sở thực tiễn 
Trong sách giáo khoa và sách giáo viên phần phân môn tập làm văn, phương pháp nêu ra mới chỉ là chung chung, chưa cụ thể, chưa là vai trò chủ thể, chủ động nắm vững kiến thức của học sinh.
Bên cạnh đó thực tế dạy học nhiều năm với những đối tượng khác nhau (lớp bốn, lớp năm). Tôi thấy chất lượng bài Tập làm văn của các em có nâng cao đôi chút, có một số tiến bộ đáng kể nhưng mới chỉ là ở một số ít. 
Thêm vào đó người dạy còn chung chung, nặng về thuyết trình, áp đặt học sinh. Giáo viên hiểu vấn đề chưa thực sự kĩ càng và thậm chí coi nhẹ giờ Tập làm văn, đặc biệt là giờ trả bài. 
Xuất phát từ ba lí do trên: 
 - Về phía người soạn sách.
 - Về phía người học. 
 - Về phía người dạy. 
Là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 5, đồng thời là cầu nối giữa văn chương với cuộc sống của các em, nối giữa lí thuyết với bài tập thực hành ... Cần phải có phương tiện nhất định phải chăng đó là vốn kiến thức của thầy, là phương pháp sư phạm của thầy. Để khắc phục tình trạng này (đã nêu trên), tôi nghĩ vấn đề chấm, trả bài Tập làm văn là vấn đề quan trọng cần phải đặc biệt quan tâm. So với các tiết dạy khác, tiết trả bài cần được giáo viên chuẩn bị công phu từ lúc chấm bài cho đến việc thiết kế bài dạy và tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp. Giáo viên chấm bài tỉ mỉ, chu đáo và hướng dẫn học sinh chữa lỗi, học cách viết văn hay không chỉ giúp trẻ phát triển kĩ năng làm văn mà còn góp phần hình thành cho các em ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng đối với sản phẩm tinh thần do chính mình tạo ra. Làm như vậy có nghĩa là chất lượng học môn Tập làm văn đã được thực sự nâng lên. Vì thế tôi chọn giờ trả bài Tập làm văn cho học sinh lớp 5 làm đề tài suy ngẫm cho mình.
3. Những vấn đề mới và khó:
 Bản thân tôi thiết nghĩ muốn nói gì thì nói chất lượng học sinh vẫn là hàng đầu, là quan trọng nhất trong nền giáo dục. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà xã hội đang đòi hỏi. Chính vì vậy mục tiêu mới của giáo dục tiểu học đã nhấn mạnh đến yêu cầu của giáo dục tiểu học, là phải góp phần đào tạo những người lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo. Yêu cầu này đòi hỏi phải đổi mới toàn diện và đồng bộ giáo dục tiểu học trong đó cần ưu tiên đổi mới phương pháp giáo dục dạy học.
Để thực hiện mục tiêu giáo dục mới và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học. Bộ giáo dục đã có một số văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học ở Tiểu học trong đó phân môn Tiếng Việt với phương châm "Coi học sinh là nhân vật trung tâm", thầy chỉ là người tổ chức hướng dẫn. Vì vậy đứng trước tình hình và nhiệm vụ mà xó hội giao phó, bản thân tôi là người giáo viên tiểu học, tôi luôn học hỏi kinh nghiệm và chịu khó đào sâu suy nghĩ để tìm ra phương pháp giảng dạy tốt nhất giúp trò tiếp thu kiến thức dễ dàng nhất. 
Đứng trước tình hình đổi mới phương pháp như vậy nhưng thực trạng hiện nay là gì? 
1) Về sách giáo khoa và sách giáo viên phương pháp nêu ra mới chỉ là chung chung chưa cụ thể.
Một vài năm gần đây có xuất hiện một số cuốn sách in những bài văn hay, những bài văn mẫu ... và có đôi ba lời nhận xét ưu điểm và hạn chế. Song tiết trả bài vẫn chưa được quan tâm đúng mức, chưa có phương pháp hay. Đó chính là một trong những vấn đề bức xúc đối với người dạy và người học.
2) Qua thực tế dạy học: Tôi thấy chất lượng bài Tập làm văn của các em có nâng cao đôi chút, có một số tiến bộ đáng kể nhưng mới chỉ là số ít. Qua đó tôi thấy còn một số tồn tại.
+ Đa số học sinh sau khi đọc tham khảo các bài văn mẫu, các bài văn hay, các em cũng thấy hay song không chỉ ra được cái hay để học tập vận dụng.
 + Một số học sinh, các em còn phải phụ thuộc vào các bài văn mẫu của thầy, của sách, dựa vào các đoạn, các ý trong cuốn: " Để học tốt môn Văn - Tiếng Việt ", " Tập làm văn " hoặc " Các bài văn hay "... thậm chí có em còn sao chép và nắp ghép một cách gượng gạo, gò ép.
+ Các em viết câu, dùng từ diễn đạt yếu, chưa biết sắp xếp ý, không biết lựa chọn những chi tiết, những hình ảnh hay để rồi hiểu và sử dụng đúng, hợp lý, lôgic; tức là các em chưa biết biến những kiến thức đã tiếp thu trong bài, trong giờ học vào một bài viết cụ thể vào " sản phẩm " của mình.
3) Thêm vào đó người dạy còn chung chung, nặng nề về thuyết trình, áp đặt học sinh và chưa thực sự quan tâm đặc biệt là giờ trả bài. Thậm chí chưa nắm chắc yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của tiết học theo chuẩn.
Thực tế qua khảo sát các giờ trả bài Tập làm văn hầu như các giáo viên ít đầu tư thời gian ghi lại vào sổ tay văn học những từ hay, ý đẹp hay những lỗi sai của học sinh về mọi phương diện. Chính vì thế người giáo viên không sửa được cách viết văn hay và dùng từ chính xác cho học sinh. Học sinh trong giờ trả bài chỉ muốn biết điểm và coi như vậy là xong. Một số giáo viên dạy còn đơn giản hoá, soạn bài chung chung.
Trong giờ trả bài hầu hết giáo viên chưa khai thác hết yêu cầu giờ trả bài. Có giờ nặng về nêu ưu điểm nên học sinh chưa nắm được hết cái sai của mình và lần sau lại mắc. Có giờ nặng về nêu khuyết điểm nhưng lại rất chung chung cho nên gây một không khí thiếu tích cực trong giờ học và quả nhiên giáo viên làm việc nhiều còn học sinh thì thụ động tiếp thu. Như vậy kết quả đạt được của giờ trả bài rất hạn chế. Vì thế nó cũng là một nguyên nhân không nhỏ khiến học sinh chưa thích học môn Tập làm văn. Để áp dụng vào bài Tập làm văn của học sinh các em cảm thấy lúng túng trước thực tế đúng sai của bài làm.
Tóm lại: Để nâng cao chất lượng môn Tập làm văn nói riêng và phân môn tiếng Việt nói chung người giáo viên phải luôn luôn đổi mới phương pháp giảng dạy tốt nhất để trò dễ tiếp thu hơn.
II - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Xuất phát từ những nhận thức trên cùng với quá trình học tập và dạy học cho các em, với những đối tượng học sinh khác nhau ( yếu, trung bình, khá, giỏi) và các trình độ khác nhau. Tôi quyết định đi sâu vào vấn đề chấm, trả bài cho học sinh lớp 5.
A - Điều tra thực trạng 
 	Từ những năm thay sách đến nay, việc đánh giá xếp loại danh hiệu học sinh tiên tiến, giỏi bậc Tiểu học, yêu cầu phải có sự phối hợp tương quan nhất định của hai môn: Toán, Tiếng Việt nhằm đánh giá toàn diện hơn. Vì vậy khi có ý định viết sáng kiến này tôi đã phỏng vấn đồng nghiệp của mình, phỏng vấn học sinh đồng thời khảo sát và phân loại học sinh nhằm mục đích nắm được đối tượng của mình và đề ra được biện pháp cụ thể nhất.
Trước tiên tôi trao đổi với đồng nghiệp xem họ dạy tiết Tập làm văn trả bài như thế nào? Khi dạy tiết này có thuận lợi và khó khăn gì?
Sau đó tôi đã phỏng vấn học sinh hai lớp 5C, 5D kết quả như sau.
+ Số học sinh rất thích học môn tiếng việt chiếm 3% ( tập trung vào những em khá giỏi và có năng khiếu).
+ Số học sinh thích học môn Tiếng Việt chiếm 28%.
+ Số học sinh nắm phương pháp học môn Tiếng Việt còn hời hợt không thuộc, hoặc thuộc rất ít thơ văn, chất lượng bài viết chưa cao chiếm 69% ( những em này thể hiện sự học thiên lệch về môn toán và học trung bình, yếu kém ở các môn ).
Tôi xem vở tập làm văn của bốn lớp năm: 5A, 5B, 5C, 5D thì thấy chất lượng bài viết của các em chưa đạt kết quả như mong muốn, số lượng bài đạt điểm khá giỏi chưa nhiều, đặc biệt nhiều em diễn đạt còn lủng củng, còn sai lỗi chính tả đặc biệt là lỗi chính tả thông thường.
Tôi dự giờ của hai lớp 5A, 5C thì thấy giáo viên chưa thực sự đầu tư thời gian nhiều cho tiết dạy, thầy dạy còn chung chung, nặng về thuyết trình, chưa gây được không khí sôi nổi cho tiết học.
Đồng thời tôi tiến hành khảo sát chất lượng của hai lớp: 5C và 5D.
+ Lớp 5D là lớp thực nghiệm 
+ Lớp 5C là lớp đối chứng
Tôi cho cả hai lớp cùng làm chung một đề văn.
Đề bài: Em hãy tả ngôi trường thân yêu đã gắn bó với em trong nhiều năm qua. Kết quả: 
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
S.L
%
5C
20
1
5
5
25
11
55
3
15
5D
25
1
4
7
28
13
52
4
16
 Chất lượng khảo sát đầu năm của lớp 2 là tương đương nhau.
Đặc biệt qua bài viết của các em tôi còn nhận thấy:
*) Về nội dung bài Tập làm văn 
- 10- 15% học sinh viết văn có bố cục rõ ràng, bài viết cô đọng xúc tích.
- 50% học sinh thực hiện được yêu cầu của đề nhưng diễn đạt ý còn chưa rõ ràng, lôgic.
- 10% học sinh còn đôi chỗ dùng từ, đặt câu, liên kết câu, đoạn chưa đạt. Văn viết gò bó thiếu tự nhiên, ít sáng tạo.
- 25% học sinh thì sao chép nguyên bản bài của bạn hoặc văn mẫu. Thậm chí có em bài viết còn khô khan, rời rạc, lủng củng, vay mượn.
*) Về kĩ năng:
- Trong bài văn của các em gần như cả bài nhiều em không có một dấu chấm câu.
- Bài viết sai lỗi chính tả, đặc biệt là lỗi chính tả thông thường, bên cạnh những lỗi chính tả vốn có của địa phương 50%.
- Diễn đạt vụng, luẩn quẩn, tối nghĩa do dùng từ viết sai, sai về nội dung do dùng từ tối nghĩa 25%.
Sở dĩ chất lượng bài viết của các em chưa cao do những nguyên nhân sau:
+ Học sinh đọc sách ít, vốn kiến thức ít.
+ Không nắm chắc yêu cầu của đề bài ra.
+ Chưa thấy  ... c em sửa thì các em lại rơi vào bế tắc. Do các em chưa hiểu mình sai như thế nào? Chữa lại ra sao? Tại sao lại như thế?
III. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
A- Kết quả:
Qua việc thực hiện tiến trình cải tiến bài giảng, thiết kế bài dạy, chấm bài và lên lớp, với sự vận dụng linh hoạt và phương pháp phát huy trí tuệ và trí lực của học sinh đã nêu, đối chiếu với kết quả khảo sát đầu năm thì chất lượng được tăng lên rõ rệt.
- Số bài đạt điểm khá giỏi tăng 36 %
- Không còn bài đạt điểm dưới 5.
Đồng thời đối chiếu kết quả bài làm giữa hai lớp đối chứng và thực nghiệm thì chất lượng của lớp thực nghiệm được nâng lên rõ rệt (nhìn vào bảng thống kê kết quả, khảo sát ta sẽ thấy rõ).
 Tôi tiếp tục đối chiếu với các bài viết hàng tháng và qua các bài khảo sát chất lượng định kì các lần kiểm tra môn Tiếng Việt thì bài làm của lớp 5D tôi chủ nhiệm đã có nhiều tiến bộ. 
Cụ thể:	- Đầu năm - 88%
- Cuối kỳ I - 96%
- Gữa kỳ II - 100%
Về chất lượng bài viết trong năm so với lúc đầu năm khảo sát tôi thấy kết quả đã được nâng lên. Chứng tỏ việc áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy của tôi đã đạt chất lượng tốt. Việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề kết hợp với phương pháp gợi mở và cách tổ chức giờ học khoa học linh hoạt, phù hợp với đặc điểm, khả năng tiếp thu của từng học sinh đã đem lại kết quả tốt. Việc vận dụng phương pháp " lấy học sinh làm nhân vật trung tâm "và “ dạy theo hướng phân hoá các đối tượng học sinh” kết hợp phương pháp gợi mở và cách thức tổ chức giờ học khoa học, linh hoạt phù hợp với đặc điểm của từng học sinh đã đem lại kết quả tốt. Từ đó kính thích học sinh suy nghĩ khi gặp tình huống có vấn đề cần giải quyết làm phát triển khả năng tư duy của trẻ, giáo viên biết cách tổ chức, hướng dẫn học sinh tự lĩnh hội tri thức hoàn toàn phù hợp với chủ trương đổi mới của ngành giáo dục đào tạo nước ta hiện nay. Việc này góp phần đào tạo học sinh thành những người lao động mới.
Thông qua các đợt hội giảng, các buổi chuyên đề và đặc biệt qua các tiết dạy của tôi,. Hội đồng sư phạm nhà trường đã họp và đánh giá, nhận xét về việc áp dụng phương pháp giảng dạy mới trong dạy Tập làm văn là đạt chất lượng tốt. Việc đánh giá của hội đồng sư phạm chứng tỏ rằng:
1 - Việc dạy Tập làm văn trả bài cho học sinh lớp 5 bằng cách để các em tự tìm ra cái sai của mình kết hợp với hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi mở của giáo viên giúp các em tiếp thu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn những lỗi sai để lần sau các em không bị mắc lại nữa.
2 - Học sinh chủ động tiếp thu kiến thức để từ đó rèn luyện được kỹ năng nghe - nói - viết.
3 - Giáo viên lên lớp và soạn bài không nhất thiết phải phụ thuộc hoàn toàn vào sách hướng dẫn mà người giáo viên cần suy nghĩ tìm phương pháp giảng dạy mới cho từng bài học phù hợp với sự nhận thức của học sinh lớp mình dạy và tuân thủ theo cuốn chuẩn kiến thức kĩ năng đang hiện hành.
4 - Việc chuẩn bị chu đáo và đầy đủ của giáo viên và học sinh trước mỗi bài học là rất cần thiết góp phần làm cho giờ học thêm sôi nổi đạt kết quả cao. Thông qua giờ học cần xây dựng phong cách học cho học sinh: Không nói leo, không nhìn bài của bạn, không lơ là trong học tập, suy nghĩ, tìm tòi cái mới, độc lập suy nghĩ và sáng tạo trong học tập.
5 - Việc dạy tiết Tập làm văn trả bài là vấn đề không đơn giản như quan niệm của một số đồng chí giáo viên mà nó đòi hỏi sự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo trong dạy học của giáo viên.
B- Những khó khăn trong việc giải quyết nội dung:
1 - Học sinh
- Vốn kiến thức của các em về môn Tiếng việt còn hạn chế nên các em chưa có thể tự sửa đựoc cái sai của mình.
- Ngôn ngữ của các em còn chưa nhiều, chưa sâu, chưa rộng nên các em ngại phát biểu và nhận xét bài của bạn. Đồng thời chưa biết chỉ ra những ưu điểm, tồn tại ở bài làm của bạn một cách khoa học.
- Các em chưa được quan sát, gặp và chứng kiến trực tiếp đối tượng được nêu trong đề bài.
2 - Giáo viên.
- Do bản thân và đồng nghiệp chưa có nhiều kinh nghiệm, chính vì vậy chưa hướng dẫn các em làm được những bài văn hay.
- Với mỗi tiết trả bài giáo viên cần phải đầu tư thời gian nhiều cho việc chấm bài, thiết kế bài dạy.
- Về nhận thức: Đa số giáo viên chưa coi trọng giờ trả bài. Chưa có nhận thức đúng đắn về tiết học này.
3 - Nhà trường
- Chưa có đủ sách, đặc biệt là sách tham khảo cho giáo viên và học sinh để có thêm tư liệu phục vụ cho việc dạy và học.
4 - Gia đình 
- Một số ít gia đình chưa quan tâm chăm sóc con cái, chưa đầu tư thời gian cho com em học ở nhà, chưa mua sắm đầy đủ sách vở đặc biệt là sách tham khảo cho con em mình.
C- Điều kiện thực hiện:
1 - Học sinh.
- Có đầy đủ sách giáo khoa, sách tham khảo.
- Có vở để ghi chép lại những lỗi sai của mình thường hay mắc phải , từ đó tìm ra cách sửa.
- Tạo cho học sinh thói quen khi đọc được những câu văn hay trong sách, thì ghi chép lại thành tư liệu của riêng mình.
- Yêu thích môn Tiếng việt.
2 - Gia đình
- Quan tâm chăm sóc con cái 
- Mua sắm đầy đủ sách vở cho các em
- Thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm
3 - Giáo viên
- Nghiên cứu kĩ bài dạy theo từng nội dung bài cụ thể và bám sát theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
- Đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm học sinh lớp mình theo hướng: lấy học sinh làm nhân vật trung tâm và dạy học theo hướng phân loại các đối tượng học sinh.
- Phải có sổ chấm trả bài nhằm theo dõi riêng, phân loại được học sinh 
4 - Nhà trtường
- Mua sắm đầy đủ thiết bị, đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học 
- Tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh được đọc các sách tham khảo, được thường xuyên làm quen và dạy thực nghiệm bằng công nghệ thông tin...
D- Bài học kinh nghiệm:
Nhiệm vụ năm học 2009 – 2010 của ngành giáo dục là “ Năm học đổi mới quản lí và nâng cao chất lượng giáo dục”.
Trong năm học này, việc tập trung chỉ đạo quản lí, tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chuẩn kiến thức kĩ năng, tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học là trọng tâm để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Thông qua phân môn Tiếng việt cụ thể là thông qua tiết Tập làm văn trả bài của học sinh lớp 5.
Kinh nghiệm của tôi chỉ áp dụng cho học sinh trường tiểu học tôi đang dạy và đặc biệt là học sinh lớp 5. Vì thời gian có hạn tôi chưa tham vọng trình bày hết quá trình thực hiện của mình về cải tiến phương pháp dạy học.
Sau khi dạy tiết Tập làm văn trả bài tôi tự rút ra bài học sau:
 1 - Đối với giáo viên:
- Phải phân loại được các đối tượng học sinh, nắm được lỗi điển hình của từng em, lỗi điển hình của lớp. Từ đó có hướng cụ thể, đề ra biện pháp cụ thể.
- Phải làm tốt khâu chấm bài, chỉ ra những lỗi sai của từng câu, từng bài thể hiện trong bài làm của học sinh.
- Phải khen thưởng, động viên kịp thời những em có bài văn hay, để cho lớp học tập bạn. Từ đó nhân điển hình của lớp lên.
- Thiết kế bài dạy phải có đổi mới. Trong bước bài mới phải thực hiện đúng tiến trình như đã nêu, nhằm đảm bảo tính khoa học.
- Đặc biệt phải trú trọng đến tình hình chữa lỗi cho các em, phải biết kết hợp các phương pháp dạy học với hệ thống câu hỏi mang tính gợi mở để thực hiện tốt phần này.
- Sau mỗi bài viết, nghĩa là sau mỗi tiết trả bài phải chỉ rõ lỗi mắc của học sinh, có hình thức thưởng phê bình thích đáng, công minh.
2 - Đối với học sinh: Cần tích cực học tập, tích cực đào sâu suy nghĩ để chủ động tiếp thu tri thức 
3 - Đối với các cấp lãnh đạo: cần kiểm tra kĩ giáo án phần Tập làm văn cụ thể ở tiết trả bài vì đây là vai trò cuối cùng của phần giảng dạy môn Tập làm văn.
Trong nhà trường vào những buổi chuyên đề cần đưa phân môn Tập làm văn vào nhất là tiết trả bài, cần phải thống nhất cho tất cả mọi giáo viên phải cụ thể khi lên lớp giờ này. Bên cạnh đó nhà trường, gia đình, xã hội cần phải quan tâm tới tài liệu cho phân môn này. Nhất là nhà trường cần phải trang bị thêm các tài liệu tham khảo cho thư viện, tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh có thời gian tham khảo.
Hàng năm cần tổng kết đợt viết sáng kiến kinh nghiệm và phổ biến rộng rãi các kinh nghiệm sáng kiến hay tới từng giáo viên.
E- Đề xuất hướng giải quyết:
Đề tài của tôi mới là đổi mới một số vấn đề về dạy tiết trả bài cho học sinh lớp 5 - nếu có điều kiện những năm tiếp theo tôi sẽ trở lại vấn đề này và nghiên cứu sâu hơn về kĩ năng sửa lỗi, dùng từ đặt câu và dùng dấu chấm câu.
G- Kết luận:
Những kinh nghiệm, những thành tựu khoa học của những người đi trước đã nghiên cứu phân môn Tập làm văn, thì giờ trả bài cũng đã được nghiên cứu một cách có hệ thống. Song với cách suy nghĩ của mình tôi đã mạnh dạn đưa ra phương pháp cụ thể hơn mà học sinh tiểu học càng cụ thể, dễ hiểu càng tốt. Chính vì vậy trong phương pháp này tôi muốn cụ thể hoá vấn đề. Nhưng có ý kiến cho rằng cứ dạy tốt phần quan sát tìm ý, hay lập dàn bài thì học sinh sẽ làm tốt môn văn. Điều đó cũng không loại trừ nhưng cũng không nên lơ là tiết trả bài. Tôi muốn khẳng định lần nữa rằng, tiết trả bài là khâu rất quan trọng trong quá trình hoàn thiện bài văn hay, diễn đạt gẫy gọn hơn cho tiết sau. Trong tiết này thì khâu chấm bài, nhận xét của bài viết của học sinh lại rất quan trọng, làm sao chỉ ra lỗi cho học sinh công nhận, khi hiểu được rồi học sinh sẽ biết cách sửa và không mắc lại hoặc rất ít mắc lại.
Để luyện cho học sinh có kĩ năng dùng từ đặt câu chính xác, câu cần có đầy đủ các vế câu gẫy gọn xúc tích, ngoài việc dạy đủ các loại bài trong môn Tiếng việt, người giáo viên phải biết kết hợp giữa thầy và trò, tôn trọng quy tắc " thầy chủ đạo, trò chủ động ...". Soạn bài, chấm bài, giảng bài không hời hợt qua loa.
Khi hướng dẫn học sinh dùng từ đặt câu phải chính xác. Những vấn đề đó sẽ được tận dụng tối đa vào tiết trả bài. Vì tiết đó các em sẽ có những câu cụ thể của chính mình để thay thế, sửa chữa.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi về dạy ( Tập làm văn trả bài ) cho các em nhằm đem lại hiệu quả cao trong học tập ở phân môn này. Tôi rất mong được sự giúp đỡ, tham khảo và đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và mong được sự giúp đỡ của lãnh đạo các cấp. 
 Tôi xin chân thành cám ơn!
Ngày 25 tháng 3 năm 2010
Người viết
MỤC LỤC
Trang
I.
II
III
Đặt vấn đề
Cơ sở lí luận
Cơ sở thực tiễn
 3. Những vấn đề mới và khó 
Giải quyết vấn đề
Điều tra thực trạng
Phương pháp giải quyết
 C- Khảo sát bằng số liệu thống kê
Kết quả và bài học kinh nghiệm
 A- Kết quả
 B- Những khó khăn trong việc giải quyết nội dung 
 C- Điều kiện để thực hiện
 D- Bài học kinh nghiệm 
 E- Đề xuất hướng tiếp tục giải quyết 
 G- Kết luận 
1
1
1
2
4
4
6
12
13
13
14
15
16
17
17

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN Day tiet TLV tra bai lop 5.doc