Giáo dục ngày nay được coi là nền móng của sự phát triển kinh tế xã hội đem lại sự thịnh vượng cho nền kinh tế quốc dân. Vì lẽ đó thể coi giáo dục đồng nghĩa với sự phát triển.
Có thể khẳng định rằng không có giáo dục thì không có bất cứ sự phát triển nào đối với con người, đối với kinh tế, văn hoá. Chính nhờ giáo dục mà các di sản tư tưởng và kỹ thuật của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Các di sản này được tích luỹ càng phong phú làm cho xã hội càng phát triển. Trong văn kiện Hội nghị TW4- khoá VII đã khẳng định”Giáo dục đào tạo là chìa khoá để mở cửa tiến vào tương lai”. Cúng chính với tinh thần đặc biệt coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục và đào tạo, đồng thời cũng chỉ rõ sứ mệnh của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là:
“Cùng với khoa học công nghệ, Giáo dục- Đào tạo là quốc sách hàng đầu ”.
“Nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ”.
Nhận thấy rõ vai trò, vị trí vô cùng to lớn của giáo dục trong văn kiện đại hội X Đảng ta đã nhấn mạnh ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất cho nhà trường là việc làm không thể thiếu.
A. Đặt vấn đề I. Mở đầu: Giáo dục ngày nay được coi là nền móng của sự phát triển kinh tế xã hội đem lại sự thịnh vượng cho nền kinh tế quốc dân. Vì lẽ đó thể coi giáo dục đồng nghĩa với sự phát triển. Có thể khẳng định rằng không có giáo dục thì không có bất cứ sự phát triển nào đối với con người, đối với kinh tế, văn hoá. Chính nhờ giáo dục mà các di sản tư tưởng và kỹ thuật của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Các di sản này được tích luỹ càng phong phú làm cho xã hội càng phát triển. Trong văn kiện Hội nghị TW4- khoá VII đã khẳng định”Giáo dục đào tạo là chìa khoá để mở cửa tiến vào tương lai”. Cúng chính với tinh thần đặc biệt coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục và đào tạo, đồng thời cũng chỉ rõ sứ mệnh của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là: “Cùng với khoa học công nghệ, Giáo dục- Đào tạo là quốc sách hàng đầu ”. “Nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ”. Nhận thấy rõ vai trò, vị trí vô cùng to lớn của giáo dục trong văn kiện đại hội X Đảng ta đã nhấn mạnh ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất cho nhà trường là việc làm không thể thiếu. Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng. . Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong các môn học ở Tiểu học, môn toán giữ một vị trí rất quan trọng. Môn toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh: - Có những kiến thức cơ bản, nền tảng về toán học - Hình thành những kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải các bài toán có những ứng dụng thiết thực trong cuộc sống. - Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần bước đầu hình thành phương pháp học tập và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Hiện nay có nhiều giải pháp đã và đang được nghiên cứu, áp dụng để góp phần thực hiện mục tiêu trên. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh cũng là một trong những giải pháp được nhiều người quan tâm nhằm đưa các hình thức dạy học mới vào nhà trường. Để tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, môn toán ở Tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng cần có một phương pháp dạy học cụ thể phù hợp với từng loại toán. Xét riêng về loại toán chuyển động đều ở lớp 5, ta thấy đây là loại toán khó, rất phức tạp, phong phú đa dạng và có rất nhiều kiến thức áp dụng vào thực tế cuộc sống. Mặt khác việc hình thành, rèn luyện, củng cố các kỹ năng giải toán chuyển động đều gần như là chưa có nên các em không thể tránh khỏi những khó khăn sai lầm khi giải loại toán này. Vì thế rất cần phải có phương pháp cụ thể đề ra để dạy giải các bài toán chuyển động đều nhằm đáp ứng các nội dung bồi dưỡng nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, bồi dưỡng nâng cao khả năng tư duy linh hoạt và óc sáng tạo của học sinh. Đã có những cuốn sách viết về loại toán chuyển động đều, song những cuốn sách này mới chỉ dừng lại ở mức độ hệ thống hoá các bài tập (chủ yếu là bài tập khó) cho nên sách mới chỉ được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho học sinh giỏi. Còn lại những tài liệu khác, toán chuyển động đều có được đề cập đến nhưng rất ít, chưa phân tích một phương pháp cụ thể nào trong việc dạy giải các bài toán chuyển động đều này. Trước ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề nêu trên; là một giáo viên đã từng dạy lớp 5, tôi đã chọn và áp dụng cho mình một phương pháp dạy học phù hợp để dạy loại toán chuyển động đều. Đó là: "áp dụng dạy học tích cực để dạy giải các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5" Vì thời gian có hạn, nhận thức và năng lực còn hạn chế nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự góp ý của đồng nghiệp và các cấp quản lý giáo dục. II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 1,Thực trạng việc dạy và học toán chuyển động đều ở trường TH Phú Nhuận. Tôi đã tiến hành khảo sát trên một số lớp 5 ở trường Tiểu học Phú Nhuận- Như Thanh .Nội dung và kết qủa như sau: a) Đối với giáo viên: Tôi đưa ra một số câu hỏi đối với giáo viên trực tiếp dạy lớp 5 và thu được kết quả như sau: Câu hỏi 1: Cô (thầy) chia các bài toán chuyển động đều về những dạng nào ? Dựa vào đâu để chia như vậy ? Trả lời: Chia làm 2 loại, loại đơn giản có 1 động tử chuyển động, loại nâng cao có 2 động tử hay nhiều động tử. Câu hỏi 2: Khi giải bài toán chuyển động đều, học sinh thường mắc những sai lầm gì ? Trả lời: Không biết cách trình bày lời giải, đôi khi tính toán sai, vận dụng công thức lẫn lộn, kỹ năng giải bài toán nâng cao yếu. Câu hỏi 3: Để dạy tốt dạng toán về chuyển động đều, ta cần lưu ý gì về phương pháp ? Trả lời: Phải tăng cường số lượng, chất lượng các bài tập; các bài tập đó phải có hệ thống, được phân loại rõ ràng. Phải nghiên cứu và cung cấp cho học sinh một số phương pháp giải thích hợp. b) Đối với học sinh: * Tìm hiểu chất lượng giải các bài toán chuyển động đều ở học sinh. Tôi đã tiến hành kiểm tra vở của học sinh lớp 5B (trường Tiểu học Phú Nhuận).Việc kiểm tra vở học sinh được tiến hành sau khi các em học xong phần lý thuyết toán chuyển động đều và một số tiết luyện tập. - Số lượng vở được kiểm tra: 12 quyển của 12 học sinh (trong đó 1/2 là học sinh yếu, 7/14 học sinh TB, 2/4 học sinh khá, 2/4 học sinh giỏi). - Số lượng bài tập phải làm ở mỗi cuốn vở là 12 bài. Gồm: Bài 3 trang 140; bài 1, 4 trang 144, 145; bài 1,3 trang 145, 146; bài 1,2,3, trang 171, 172, (tiết luyện tập); bài 4,5 trang 177, 178 ; bài 1, 3 trang 179, 180. Kết quả như sau: Số lượng vở Số lượng bài tập Số bài làm Số bài không làm Đạt yêu cầu Không đạt yêu cầu 12 quyển 144 bài 96 bài = 66,67% 28 bài =19,45% 20 bài = 13,98% - Số bài không đạt yêu cầu hầu hết thuộc về các bài toán có 2 động tử. Như vậy, nhìn chung chất lượng về dạy giải toán chuyển động đều ở lớp 5B trường Tiểu học Phú Nhuận đã đạt yêu cầu. Tuy nhiên các bài toán trên hầu hết là những bài toán đơn giản. Một số bài toán có tính chất nâng cao, học sinh làm không trọn vẹn. Điều đó phản ánh phần nào việc dạy và học còn chưa tận dụng triệt để những khả năng sẵn có trong học sinh. Có một điều đáng chú ý là kết quả trên đây tuy đạt yêu cầu nhưng lại không đồng đều nhau. Có em làm đúng gần hết các bài tập, có em làm sai và sai rất nhiều. Từ thực trạng trên tôi thấy cần phải tìm ra các nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh khi giải loại toán này để có phương pháp khắc phục. * Nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh trong quá trình giải bài toán về chuyển động đều. - Là một bộ phận trong chương trình toán Tiểu học, dạng toán chuyển động đều là một thể loại gần như mới mẻ và rất phức tạp với học sinh lớp 5. Các em thực sự làm quen trong thời gian rất ngắn (Học kỳ II lớp 5). Việc rèn luyện, hình thành, củng cố kĩ năng, kĩ xảo giải toán của học sinh ở loại này gần như chưa có. Chính vì vậy học sinh không thể tránh khỏi những khó khăn, sai lầm. Qua thực tế giảng dạy và khảo sát học sinh ở một số lớp, tôi thấy sai lầm của học sinh khi giải toán chuyển động đều là do những nguyên nhân sau: a) Sai lầm do học sinh không đọc kĩ đề bài, thiếu sự suy nghĩ cặn kẽ dữ kiện và điều kiện đưa ra trong bài toán. Ví dụ: (Bài 3 trang 140 SGK) Quãng đường AB dài 25 km. Trên đường đi từ A đến B, một người đi bộ 5Km rồi tiếp tục đi ô tô trong nửa giờ thì đến B. Tính vận tốc của ô tô. Có 8 học sinh lớp 5B đã giải như sau: Vận tốc của ôtô là: Đáp số: 50 km/h Còn hầu hết học sinh làm đúng bài toán với lời giải như sau: Quãng đường người đó đi bằng ô tô là: 25 - 5 = 20 (km) Vận tốc của ô tô là: Đáp số: 40km/h Cả 8 học sinh mắc sai lầm trên đều do các em chưa đọc kĩ đề bài, bỏ sót 1 dữ kiện quan trọng của bài toán "Người đó đi bộ 5 km rồi mới đi ô tô". Trên đây chỉ là một trong những ví dụ học sinh mắc sai lầm loại này. b)Khi giải bài toán học sinh còn nặng về trí nhớ máy móc, tư duy chưa linh hoạt. Ví dụ: Bài 1trang 144 (SGK toán 5): Quãng đường AB dài 180Km. Một ô tô đi từ A đến B với vận tốc 54Km/giờ, cùng lúc đó một xe máy di từ B đến Avới vận tốc 36Km/giờ. Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ ô tô gặp xe máy? Khi gặp bài toán trên học sinh rất lúng túng, không biết vận dụng công thức gì để tính. Tôi tiến hành kiểm tra trên lớp 5 B chỉ có một số ít em làm được bài toán theo cách giải sau: Cứ sau mỗi giờ ô tô và xe máy đi được số km là: 54 + 36 = 90 (km) Thời gian để ô tô và xe máy gặp nhau là: 180 : 90 = 2 (giờ) Đáp số: 2 giờ Một số học sinh khác do quen cách tính chỉ có một động tử nên không viết được trọn vẹn lời giải. Một số học sinh lại do nhầm lẫn giữa chuyển động ngược chiều và chuyển động cùng chiều nên áp dụng sai công thức, dẫn đến giải sai bài toán. c) Học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản. Ví dụ: Một xe máy đi từ A đến B hết 42 phút. Tính quãng đường AB, biết vận tốc của xe máy là 36 km/giờ. Tôi tiến hành khảo sát trên lớp 5B, đây là bài toán cơ bản nhưng có rất nhiều em giải sai một cách trầm trọng như sau: Quãng đường AB là: 36 x 42 = 1512 (km) Đáp số : 1525 km Với bài toán trên học sinh rất dễ lúng túng khi thấy đơn vị đo vận tốc của xe máy là km/giờ, mà thời gian xe máy đi hết quãng đường lại đo bằng đơn vị (phút). Nên trong quá trình giải các em đã không đổi đơn vị đo mà cứ để nguyên dữ kiện của bài toán như vậy lắp vào công thức s = v x t để tính. Đây là một trong những sai lầm rất đặc trưng và phổ biến của học sinh khi giải các bài toán chuyển động đều do không nắm chắc được việc sử dụng đơn vị đo. d) Vốn ngôn ngữ của học sinh còn nhiều hạn chế. Ví dụ: Lúc 6 giờ một ôtô đi từ A đến B với vận tốc 50km/h. Lúc 7 giờ 30 phút một xe ôtô du lịch đi từ B đến A với vận tốc 65 km/h. Hỏi hai xe gặp nhau lúc mấy giờ ? Biết quãng đường AB là 420 km. Khi tiến hành điều tra trên lớp 5B tôi thấy có 16 em đi đúng hướng giải, nhưng 9 em trong đó có lời văn không khớp với phép tính giải. Hơn nữa bài toán hỏi lúc mấy giờ hai xe gặp nhau (tức là tìm thời điểm hai xe gặp nhau) học sinh không hiểu và chỉ tìm thời gian để hai xe gặp nhau. 2, Kết quả của thực trạng trên: Sau đây là kết quả khảo sát trên 3 lớp ... p nhau? Công thức giải: Chuyển về bài toán 3, coi đó là chuyển động cùng chiều khởi hành cùng lúcvới động tử thứ hai. * Để giúp học sinh nhớ công thức tính thời gian để hai động tử gặp nhau (trong bài toán 1 và bài toán 2): t = s : (v1 + v2) Ta có câu thơ: " Dẫu có xa xôi chẳng ngại chi, Tôi - Bạn hai kẻ ngược chiều đi, Vận tốc đôi bên tìm tổng số, Đường dài chia tổng chẳng khó gì !" - Để giúp học sinh nhớ công thức tính thời gian để động tử thứ 2 đuổi kịp động tử thứ nhât (bài toán 3 và bài toán 4): t = s : (v2 - v1) ; (v2 > v1) Ta có câu thơ sau: " Trên đường kẻ trước với người sau, Hai kẻ cùng chiều muốn gặp nhau, Vận tốc đôi bên tìm hiệu số, Đường dài chia hiệu khó chi đâu !" b) Thí du minh hoạ. Ví dụ 1: Hai người ở 2 thành phố A và B cách nhau 130 km. Họ ra đi cùng lúc và ngược chiều nhau. Người thứ nhất đi xe máy từ A với vân tốc 40 km/h, người thứ 2 đi xe đạp từ B đến vận tốc 12 km/h. Hỏi sau bao lâu họ gặp nhau và chỗ gặp nhau cách A bao nhiêu km ? * Dự kiến khó khăn sai lầm của học sinh. - Học sinh không nhận biết được rằng khi 2 xe gặp nhau tức là cả 2 xe đã đi được một quãng đường bằng quãng đường AB (130 km) - Lúng túng khi vận dụng công thức: t = s : (v2 + v1) - Nhầm lẫn đơn vị đo - Câu lời giải không khớp với phép tính giải. * Tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung bài toán - Đọc bài toán (đọc to, đọc thầm) - Nắm bắt nội dung bài toán: + Bài toán cho biết cái gì ? (đi ngược chiều, s = 130 km, v1 = 40 km/h, v2 = 12 km/h) + Bài toán yêu cầu phải tìm cái gì ? (thời gian đi để gặp nhau, khoảng cách từ chỗ gặp nhau đến A) - Xác định dạng của bài toán: Đây là bài toán đi ngược chiều, cùng lúc, tìm thời gian, chỗ gặp (bài toán 1) * Tìm cách giải bài toán: - Tóm tắt bài toán: Bước đầu học sinh mới học giải toán, giáo viên làm mẫu và hướng dẫn học sinh tóm tắt các bài tập kế tiếp giáo viên chỉ định hướng, kiểm tra học sinh tự tóm tắt. v1 = 40 km/h 130 km v2 = 12 km/h A B + Gặp nhau sau giờ ? + Chỗ gặp cách A .... km ? - Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt (không nhìn đề mà nhìn vào tóm tắt, học sinh tự nêu bài toán theo sự hiểu biết và ngôn ngữ của mình) - Lập kế hoạch giải bài toán: + Sau khi 2 xe gặp nhau, tức là cả 2 đã đi được quãng đường bao nhiêu ? (130 km) + Để biết được 2 xe gặp nhau sau mấy giờ trước tiên ta cần biết gì ? (mỗi giờ cả 2 xe đi được bao nhiêu km (tức là tổng vận tốc của 2 xe)) + Việc tính tổng vận tốc của 2 xe được thực hiện như thế nào ? (40 + 12 = 52 (km/h) Như vậy ta có bài toán: Cả 2 xe: đi 52 km hết 1 giờ đi 130 km hết giờ ? Đây là phép so sánh tỉ lệ thuận giữa thời gian và quãng đường. + Vậy việc tính thời gian 2 xe gặp nhau được thực hiện như thế nào ? (130 : 52 = 2,5 (giờ)) + Khoảng cách từ chỗ gặp nhau đến A được tính như thế nào ? (40 x 2,5 = 100 (km)) - Trình bày lời giải: Mỗi giờ cả 2 xe đi được là: 40 + 12 = 52 (km) (hoặc: tổng vận tốc của 2 xe là: 40 + 12 = 52 (km/h)) Thời gian để 2 xe gặp nhau là: 130 : 52 = 2,5 (giờ) Chỗ gặp nhau cách A là: 40 x 2,5 = 100 (km) Đáp số: 2,5 giờ 100 km * Khái quát hoá cách giải:giáo viên tổ chức, hướng dẫn để học sinh nêu lên được công thức chung để giải bài toán (đã nêu ở mục II, dạng 2 - bài toán 1) * Đề xuất bài toán mới: Lúc 6 giờ sáng, một người đi xe đạp xuất phát từ A đến B với vận tốc 15 km/h. Đến 8 giờ một người đi từ B đến A với vận tốc 18km/h. Hỏi hai người gặp nhau lúc mấy giờ ? Biết quãng đường AB dài 129 km. Ví dụ 2. Lúc 6 giờ sáng một người đi xe máy lên tỉnh họp với vận tốc 40 km/h. Đến 7 giờ một người đi ô tô đuổi theo với vận tốc 60 km/h. Tìm thời điểm để hai người gặp nhau. * Dự kiến khó khăn sai lầm: - Học sinh không tính được quãng đường xe máy đi được khi xe ô tô xuất phát. - Học sinh nhầm lẫn giữa thời gian và thời điểm - Không vận dụng chính xác công thức: t = s : (v2 - v1) ; (v2 > v1) - Câu lời giải không khớp với phép tính giải. * Tổ chức học sinh tìm hiểu nội dung bài toán. - Đọc bài toán, nêu cách hiểu về thuật ngữ "Thời điểm" - Nắm bắt nội dung bài toán + Bài toán cho biết cái gì ? (đi cùng chiều, đuổi nhau, v1 = 40 km/h, v2 = 60 km/h, xe máy xuất phát lúc 6 giờ, ô xuất phát lúc 7 giờ) + Bài toán yêu cầu phải tìm cái gì ? (thời điểm 2 người gặp nhau) - Xác định dạng của bài toán: Đây là bài toán đuổi nhau, không cùng lúc, tìm thời điểm gặp nhau). Có thể chuyển về bài toán đuổi nhau coi là cùng lúc với người đi ô tô. * Tìm cách giải bài toán. - Tóm tắt bài toán: 40 km/h, lúc 6 giờ 60 km/h, lúc 7 giờ gặp nhau lúc .. giờ ? - Cho học sinh diễn đạt bài toán qua tóm tắt (không nhìn đề mà nhìn vào tóm tắt) - Lập kế hoạch giải bài toán. + Muốn biết được lúc nào hai xe gặp nhau (thời điểm gặp nhau) ta phải làm gì ? (phải tính được khoảng thời gian cần thiết để đuổi kịp nhau) + Muốn tính được thời gian đi để hai người đuổi kịp nhau, ta phải biết cái gì (khoảng cách giữa hai xe khi ô tô xuất phát) Ngoài ra còn phải biết gì nữa ? (cứ mỗi giờ hai xe gần nhau thêm bao nhiêu km (tức hiệu vận tốc)) + Khoảng cách giữa hai xe khi ôtô xuất phát được tính như thế nào? (40 x (7 - 6 ) = 40 (km)). + Hiệu vận tốc của 2 xe được tính như thế nào ? (60 - 40 = 20 (km/h)) + Thời gian đi để hai xe gặp nhau được tính như thế nào? (40 : 20 = 2 (giờ) ) Làm thế nào để tính được thời gian hai xe gặp nhau? (7 + 2 = 9 (giờ)) - Trình bầy lời giải Khoảng cách giữa hai người khi ôtô xuất phát là: 40 x (7 - 6 ) = 40 (km) Cứ mỗi giờ hai người gần nhau thêm là: 60 - 40 = 20 (km) Thời gian đi để hai người gặp nhau là: 40 : 20 = 2 (giờ) Thời điểm hai người gặp nhau là: 7 + 2 = 9 (giờ) Đáp số: 9 (giờ) * Khái quát hoá cách giải: giáo viên tổ chức hướng dẫn để học sinh nêu lên được công thức chung để giải bài toán (Đã được nêu ở mục II, dạng 2 - bài toán 4) * Đề xuất bài toán mới .Một người đi xe đạp từ A với vận tốc 15 km/h. Đi được hai giờ thì một người đi xe máy bắt đầu đi từ A đuổi theo với vận tốc 35 km/h. Hỏi người đI xe máy đi trong bao lâu thì đuổi kịp người đi xe đạp ? Nơi gặp nhau cách A bao nhiêu km? C. Kết luận I/ Kết quả nghiên cứu: Tôi đã tiến hành áp dụng dạy học tính cực để dạy giải các bài toán chuyển động đều ở lớp 5B và lấy kết quả đối chứng với lớp 5C (khi dạy loại toán này mà không áp dụng phương pháp dạy học tích cực nêu trên). Sau khi cả hai lớp học xong bài quãng đường, vận tốc thời gian và các tiết luyện tập. Tôi đưa ra đề kiểm tra gồm hai bài như sau: Bài 1: Lúc 6 giờ một ôtô tải đi từ A đến B với vận tốc 50 km/h. Đến 7 giờ 30 phút có một xe ôtô du lịch cũng xuất phát từ A đến B với vận tốc 65 km/h. Hỏi xe du lịch đuổi kịp xe tải lúc mấy giờ ? Biết rằng trên đường đi không xe nào nghỉ. Bài 2: Một ôtô và một xe đạp đi ngược chiều nhau. Ôtô đi từ A với vận tốc 42,5 km/h. Xe đạp đi từ B với vận tốc 11,5 km/h. Sau 2,5 giờ ôtô và xe đạp gặp nhau tại C. Hỏi quãng đường AB dài bao nhiêu km? Kết quả thu được như sau: Lớp Số HS Điểm Yếu TB Khá Giỏi Lớp thực nghiêm 24 HS 2 bài = 8,3% 10 bài = 41,6% 8 bài = 33,3% 4 bài = 16,6 % Lớp đối chứng 28 HS 5 bài = 17,86% 15 bài = 53,57% 6 bài = 21,43% 2 bài = 7,14% Kết quả trên cho thấy việc áp dụng dạy học tích cực để dạy giải các bài toán về chuyển động đều bước đầu thu được kết quả tốt. Học sinh tiếp thu đồng đều và sâu sắc hơn về bài toán. Số lượng điểm khá, giỏi chiếm tỉ lệ cao. - Trong quá trình làm bài học sinh ít mắc sai lầm hơn. Điều này chứng tỏ rằng: nếu được sự quan tâm đúng mức, cùng với sự hướng dẫn chu đáo, hợp lý thì chất lượng việc giải các bài toán chuyển động đều sẽ được nâng lên. Tuy nhiên với năng lực học sinh còn nhiều hạn chế nên không ít em đứng trước nhiệm vụ giải toán còn cảm thấy bị quá sức. Do đó kết quả thu được ở trên chỉ phản ánh thực tế khách quan ở mức độ nhất định. Như vậy việc áp dụng dạy học tích cực để dạy giải các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5 là một giải pháp có tính hiệu quả cao. Nó có tác dụng giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận. Hơn nữa nó còn giúp các em tự phát hiện, giải quyết vấn đề, tự nhiên xét, so sánh, phân tích, tổng hợp và từ đó áp dụng những kiến thức về toán chuyển động đều vào thực tế cuộc sống. II. Kiến nghị, đề xuất: Khi dạy giải bài toán chuyển động đều theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, chúng ta cần chú ý những điểm sau: - Bài toán chuyển động đều là thể loại phức tạp, nội dung đa dạng phong phú. Do đó việc yêu cầu học sinh đọc kỹ đề toán để xác định được dạng bài và tìm ra hướng giải đúng là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên. Khi dạy bài toán chuyển động đều, giáo viên nên tổ chức cho học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng. - Khi dạy giải bài toán chuyển động đều, giáo viên cần hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ để các em vận dụng công thức giải được chính xác, linh hoạt. - Đối với những bài toán chuyển động đều phức tạp, cần hướng dẫn học sinh một số phương pháp (sơ đồ đoạn thẳng, suy luận,) để đưa bài toán về dạng điển hình. - Khi hướng dẫn giải các bài toán chuyển động đều, giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh giải bằng nhiều cách khác nhau (nếu có thể) và lựa chọn cách giải hay nhất. - Khi hướng dẫn giải các bài toán chuyển động, giáo viên phải giúp học sinh phân biệt được "thời điểm" và "thời gian", giúp học sinh biết vận dụng mối tương quan tỉ lệ thuận và tương quan tỉ lệ nghịch giữa ba đại lượng: quãng đường, vận tốc, thời gian vào việc giải bài toán. - Giáo viên cần phải chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ bởi đây là bài toán khó có nhiều bất ngờ trong lời giải; chính vì vậy đứng trước một bài toán giáo viên cần làm tốt những công việc sau: + Xác định đúng yêu cầu bài toán và đưa bài toán về dạng cơ bản. + Tìm các cách giải khác nhau của bài toán. + Dự kiến những khó khăn sai lầm của học sinh + Tìm cách hướng dẫn học sinh tháo gỡ khó khăn và gợi ý để học sinh tìm được cách giải hay. + Hướng dẫn học sinh lập bài toán tương tự (hoặc bài toán ngược) với bài toán đã giải. Tóm lại: Dạy giải bài toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5 theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh là giải pháp có tính khả thi và phù hợp với bản chất của hoạt động nhận thức. Tuy nhiên nó đòi hỏi người giáo viên phải chuyên tâm suy nghĩ , thiết kế những hoạt động của học sinh trên cơ sở lựa chọn và sử dụng các hình thức tổ chức dạy học một cách phù hợp với từng đối tượng học sinh./. Phỳ Nhuận, ngày 18 thỏng 3 năm 2008 Người thực hiện Lê Thị Vượng
Tài liệu đính kèm: