Các bài toán điển hình lớp 5 và phương pháp giảng dạy

Các bài toán điển hình lớp 5 và phương pháp giảng dạy

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

 Trong chương trình toán ở tiểu học, việc giải các bài toán chiếm một vị trí rất quan trọng. Các khái niệm toán học, các quy tắc toán học đều được giảng dạy thông qua giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán . Đồng thời, qua việc giải toán cho học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những mặt mạnh, mặt yếu của từng em về kiến thức, kĩ năng và tư duy để từ đó giúp học sinh phát huy được tính chủ động sáng tạo trong học tập.

 Hướng dẫn học sinh tìm ra lời giải đúng và hay là rất khó. Đại đa số giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh giải các bài toán trong sách giáo khoa, ít khi đề cập đến các bài toán khác trong các tài liệu tham khảo. Chính vì thế việc rèn kĩ năng giải toán điển hình còn có phần hạn chế. Để dạy tốt các dạng toán này điều trước tiên mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ, thực sự quan tâm đến học sinh từ đó phải đầu tư nghiên cứu đề ra những biện pháp cụ thể cho từng tiết dạy. Từ những điều này tôi thấy việc cần phải rèn kĩ năng giải toán điển hình cho học sinh là quan trọng. Song bản thân tôi không có tham vọng lớn mà chỉ cố gắng nghiên cứu tìm tòi nhằm đáp ứng được phần nào trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học. Vì lẽ đó, tôi đã chọn nội dung “Các bài toán điển hình lớp 5 và phương pháp giảng dạy” để nghiên cứu và áp dụng vào công tác giảng dạy của mình.

 

doc 28 trang Người đăng hang30 Lượt xem 2101Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Các bài toán điển hình lớp 5 và phương pháp giảng dạy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA SƯ PHẠM
HÀ VĂN TRUNG
CÁC BÀI TOÁN ĐIỂN HÌNH LỚP 5 
VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
TIỂU LUẬN KHOA HỌC CUỐI KHOÁ
Đăk Lăk, 2010
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA SƯ PHẠM
HÀ VĂN TRUNG
CÁC BÀI TOÁN ĐIỂN HÌNH LỚP 5 
VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
TIỂU LUẬN KHOA HỌC CUỐI KHOÁ
Chuyên ngành : Sư phạm tiểu học
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
ThS: Từ Thị Việt Hà
Đăk Lăk, 2010
LỜI CẢM ƠN
 Trong tâm hồn của mỗi người giáo viên, chắc hẳn không thể thiếu sự say mê và niềm trăn trở là làm sao để bài giảng của mình đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, đầy đủ và chính xác. Hơn 15 năm công tác, với sự say mê và niềm trăn trở đó, tôi đã tích luỹ được một số kinh nghiệm trong dạy học Toán mà chủ yếu là các bài toán điển hình lớp 5. Với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung và chất lượng dạy học môn toán lớp 5 nói riêng, tôi đã tập hợp các kinh nghiệm để xây dựng đề tài “Các bài toán điển hình lớp 5 và phương pháp giảng dạy”.
 Đến nay, đề tài đã tương đối hoàn thành. Có được kết quả như vậy là nhờ sự nỗ lực của bản thân, sự động viên, khích lệ của gia đình, sự quan tâm chia sẻ của bạn bè đồng nghiệp và đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của quý thầy, cô giáo. 
 Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình đã cho tôi một chõ dựa vững chắc để tôi có được thời gian, có được tinh thần, sức lực để thực hiện mong muốn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè đồng nghiệp đã quan tâm chia sẻ và tiếp thêm cho tôi sức mạnh để vượt qua những khó khăn. Cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến cô giáo – Thạc sĩ Từ Thị Việt Hà, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo hết sức tận tình để tôi có được kết quả như ngày hôm nay.
 Tuy đã cố gắng hết sức, nhưng chắc hẳn sẽ không tránh được những thiếu sót. Rất mong được sự quan tâm, chia sẻ của các bạn đồng nghiệp để đề tài ngày càng được phổ biến hơn. 
 Xin chân thành cảm ơn!
 Hà Văn Trung 
PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
	Trong chương trình toán ở tiểu học, việc giải các bài toán chiếm một vị trí rất quan trọng. Các khái niệm toán học, các quy tắc toán học đều được giảng dạy thông qua giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán . Đồng thời, qua việc giải toán cho học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những mặt mạnh, mặt yếu của từng em về kiến thức, kĩ năng và tư duy để từ đó giúp học sinh phát huy được tính chủ động sáng tạo trong học tập.
	Hướng dẫn học sinh tìm ra lời giải đúng và hay là rất khó. Đại đa số giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh giải các bài toán trong sách giáo khoa, ít khi đề cập đến các bài toán khác trong các tài liệu tham khảo. Chính vì thế việc rèn kĩ năng giải toán điển hình còn có phần hạn chế. Để dạy tốt các dạng toán này điều trước tiên mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ, thực sự quan tâm đến học sinh từ đó phải đầu tư nghiên cứu đề ra những biện pháp cụ thể cho từng tiết dạy. Từ những điều này tôi thấy việc cần phải rèn kĩ năng giải toán điển hình cho học sinh là quan trọng. Song bản thân tôi không có tham vọng lớn mà chỉ cố gắng nghiên cứu tìm tòi nhằm đáp ứng được phần nào trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học. Vì lẽ đó, tôi đã chọn nội dung “Các bài toán điển hình lớp 5 và phương pháp giảng dạy” để nghiên cứu và áp dụng vào công tác giảng dạy của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 
 Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm ra các phương pháp nhằm giúp học sinh giải được các bài toán thuộc các bài toán điển hình có trong chương trình toán lớp 5.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
 Sách giáo khoa toán 5, học sinh lớp 5
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
 - Tìm ra các bài toán điển hình trong chương trình toán lớp 5.
 - Chỉ ra các phương pháp giải các bài toán điển hình trong chương trình toán lớp 5.
5. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
 Học sinh lớp 5A5 và lớp 5A6 Trường Tiểu học EaHiao năm học 2009 – 2010 
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
 Phương pháp chọn lọc, phương pháp thống kê,
 PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN:
	1.1.CƠ SỞ KHOA HỌC:
	Trong hoạt động dạy và học thì không thể không nói đến phương pháp dạy và phương pháp học, hai hoạt động đó diễn ra song song. Nếu chỉ chú ý đến việc truyền thụ kiến thức cho học sinh mà không chú ý đến việc tiếp thu và hình thành kỹ năng và kỹ xảo như thế nào thì quá trình dạy học sẽ không mang lại kết quả cao. Khi học sinh không nhận thức được tri thức khoa học thì sẽ không hình thành được kỹ năng kỹ xảo. Từ đó không nhận thức đúng đắn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn xảy ra những tình huống mà học sinh sẽ không xử lí được, cho dù giáo viên có những phương pháp giảng dạy hay đến đâu đi chăng nữa, mà học sinh không có học tập khoa học thì không thể giải quyết được nhiệm vụ dạy học.
	1.2.CƠ SỞ THỰC TIỄN:
	Đối với môn Toán là môn học tự nhiên nhưng rất trừu tượng, đa dạng, lôgic và hoàn toàn gắn với thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Bởi vậy, nếu học sinh không có phương pháp học đúng sẽ không nắm được kiến thức cơ bản về Toán học và đối với các môn học khác nhận thức gặp rất nhiều khó khăn.
	Môn Toán là một trong những môn học có vị trí rất quan trọng. Nó là chìa khoá để mở ra các môn học khác. Đồng thời nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ cần thiết giúp con người vận dụng vào cuộc sống hàng ngày.
	Trong giờ Toán, bên cạnh việc tìm tòi và sáng tạo phương pháp giảng dạy phù hợp với yêu cầu bài học và đối tượng học sinh. Mỗi giáo viên cần phải giúp các em có phương pháp lĩnh hội tri thức Toán học. Học sinh có phương pháp học Toán phù hợp với từng dạng bài Toán thì việc học mới đạt kết quả cao. Từ việc học tốt môn Toán, các em có được nền tảng vững chắc để học tốt các môn học khác.
1.3. THỰC TRẠNG HIỆN NAY:
 1.3.1. Đối với giáo viên:
Trong quá trình dạy học có thể nói người giáo viên còn chưa có sự chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm vững được lượng kiến thức, đặc biệt là các bài toán điển hình. Nguyên nhân là do giáo viên phải dạy nhiều môn, thời gian dành để nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp còn hạn chế. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh. Bên cạnh đó nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của các bài toán điển hình trong môn Toán cũng chưa đầy đủ. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn dàn trải.
1.3.2. Đối với học sinh:
	Còn nhiều gia đình học sinh chưa thực sự quan tâm tới việc học tập của con cái. Do điều kiện kinh tế còn khó khăn và trình độ học vấn chưa cao nên đa phần phụ huynh chưa chú ý đến việc học hành của con cái, đặc biệt là chưa nhận thức đúng vai trò của môn Toán. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thấy thành của mình. Cho lên sau khi học xong bài, các em chưa nắm bắt được lượng kiến thức thầy giảng rất nhanh quên và kĩ năng tính toán chưa nhanh, nhất là đối với kỹ năng giải các bài toán điển hình. 
Số liệu điều tra học lực Học kì I:
LỚP
Tổng số
học sinh
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
5A5
22
4
18,2
9
40,9
8
36,4
1
4,5
5A6
23
5
21,7
9
39,2
8
34,8
1
4,3
 Bảng 1: Chất lượng học sinh Học kì I năm học 2009 – 2010
Từ kết quả điều tra, ta nhận thấy rằng: học sinh xếp loại trung bình và học sinh xếp loại yếu vẫn còn chiếm tỉ lệ khá cao (40,9% và 39,1%). Qua nghiên cứu các bài kiểm tra, tôi nhận thấy: các điểm trung bình và yếu của ở môn Toán chiếm tỉ lệ cao mà nguyên nhân chủ yếu là do các em không giải được các bài toán điển hình.
CHƯƠNG II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
 1.1. XÁC ĐỊNH CÁC BƯỚC GIẢI TOÁN ĐIỂN HÌNH:
	 1.1.1.Bước 1 :
	Cho học sinh giải các bài toán có tính chất chuẩn bị cơ sở việc giải loại toán sắp học. Các bài toán có tích chất chuẩn bị này nên có số liệu không lớn lắm để học sinh có thể tính nhẩm được dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ váo các mối quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đề bài toán.
	Ví dụ (VD): Để chuẩn bị cho việc học loại toán về tỉ số phần trăm giáo viên có thể cho học luyện tập về tỉ số để làm nền tảng cho việc tìm tỉ số phần trăm. Từ đó dễ dàng hơn trong việc giải các bài toán về tỉ số phần trăm.
	1.1.2. Bước 2: 
	Cho học sinh phân tích và giải bài mẫu về loại toán điển hình đó. Những bài toán được chọn làm mẫu này nên có số liệu không lớn quá và có dạng tiêu biểu nhất chứa dựng tất cả những đặc điểm chung của loại toán điển hình cần học để học sinh có thể tập trung chú ý được vào khâu nhận dạng loại toán và rút ra được cách giải tổng quát.
	VD: Dạy phần bài mới của tiết: “Thể tích hình hộp chữ nhật”- lớp 5.
	* Giáo viên đọc đề toán “ Tính thể tích hình hộp chữ nhật có chiều dài 20 cm, chiều rộng 16 m và chiều cao 10 cm.”
	* Tổ chức làm việc trên đồ dùng học tập.
	- Học sinh đếm số hình lập phương 1cm3 xếp đầy trong hộp.
	- Yêu cầu học sinh nêu cách đếm: số hình ở mỗi hàng số hàng số lớp. 
 ( 20 16 10 )
	- Cho HS nêu các kích thước tương ứng với các số (dài rộng cao).
 - Gợi ý để học sinh nêu quy tắc và công thức:
 V = a b c
	1.1.3. Bước3: Học sinh giải 1 số bài toán tương tự với bài mẫu song thay đổi “văn cảnh” và số liệu để học sinh có khả năng nhận dạng loại toán và giải bài toán.
	1.1.4. Bước 4: Cho học sinh giải các bài toán phức tạp dần.
	Chẳng hạn bài toán có thêm câu hỏi hay có câu hỏi khác với câu hỏi bài mẫu để sau khi giải như bài mẫu học sinh phải làm thêm 1, 2 phép tính nữa mới ra đáp số.
	Thay đổi dữ liệu để học sinh phải giải trước những bước trung gian rồi mới áp dụng được cách giải như bài mẫu.
	1.1.5. Bước 5: Cho giải xen kẽ 1, 2 bài toán thuộc loại khác đã học nhưng có dạng tương tự loại toán đang học (tương tự về nội dung, về cách nêu dữ liệu hoặc về một bước giải nào đó...) để tránh cách suy nghĩ máy móc, rập khuôn.
	1.1.6. Bước 6: Cho học sinh tự lập đề toán thuộc loại toán điển hình đang học.
	Ví dụ: Một khu vườn trường hình chữ nhật có chu vi 480m. Tính diện tích của vườn. Biết rằng nếu viết thêm chữ số 2 vào trước số đo chiều rộng thì được số đo chiều dài.
	 Bài giải: 
 Số đo chiều rộng phải là số có 2 chữ số và nếu có 1 chữ số thì chu vi của vườn sẽ nhỏ hơn 480m. Nếu có 3 chữ số thì chu vi lớn hơn 480m.
	Khi đó viết thêm số 2 vào trước số đo chiều rộng có 2 chỡ số thì ta được chiều dài.
	Vậy chiều dài hơn chiều rộng là 200m.
	Nửa chu vi khu vườn trường hình chữ nhật là: 
	480 : 2 = 240 (m).
Ta có sơ đ ... hời gian là phút. Vì vậy cần hướng dẫn học sinh đổi đơn vị thời gian từ phút sang giờ rồi mới áp dụng công thức tính quãng đường.
Bài giải:
 15phút = 0,25giờ
 Quãng đường đi được của người đó là:
 12,6 0,25 = 3,15(km).
 Đáp số : 3,15 km.
 Hoặc Bài giải:
 12,6 km/giờ = 0,21 km/phút
 Quãng đường đi được của người đó là :
 0,21 15 = 3,15 (km).
 Đáp số : 3,15 km.
 Hoặc Bài giải:
 12,6 km/giờ = 210 m/phút
 Quãng đường đi được của người đó là :
 210 15 = 3150 (m).
 Đáp số : 3150 m.
1.2.6.3. Bài toán về tính thời gian:
1.2.6.3.1. Nội dung:
 Đây là một trong 3 dạng toán cơ bản của toán chuyển động đều trong chương trình toán lớp 5. Dạng toán này được hình thành trên cơ sở học sinh đã nắm chắc hai dạng toán cơ bản về chuyển động đều đó là tính vận tốc, tính quãng đường. Trong chương trình toán 5, dạng toán này gồm 16 bài toán được trình bày ở tiết 134 và phân bố trong các tiết học sau đó. Dạng toán này mô phỏng những hiện tượng hằng ngày xảy ra trước mắt các em. Vì vậy, khi gặp dạng toán này, các em rất hứng thú. Trong chương trình toán 5, những bài toán thuộc dạng toán này là không khó nhằm mục đích giúp các em vận dụng để tính toán những hiện tượng đang diễn ra xung quanh các em hằng ngày.
 1.2.6.3.2. Phương pháp giảng dạy:
 Khi dạy bài toán tính quãng đường vấn đề trọng tâm là cần hình thành cho các em quy tắc và công thức tính quãng đường. Vì vậy việc phân tích bài toán 1 ở tiết 134 là hết sức quan trọng để làm cơ sở cho việc hình thành quy tắc, công thức tính thời gian.
 Cũng tương tự như bài toán về tính quãng đường thì ngoài việc hình thành quy tắc và công thức tính thời gian cho học sinh, giáo viên cần lưu ý về vấn đề đơn vị đo.
 Nếu đơn vị đo quãng đường là ki-lô-mét, đơn vị đo vận tốc là km/giờ thì đơn vị đo thời gian là giờ.
 Nếu đơn vị đo quãng đường là ki-kô-mét mà đơn vị đo vận tốc là m/giờ thì giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuyển đổi đơn vị đo sao cho đơn vị đo độ dài trong đơn vị đo vận tốc trùng với đơn vị đo quãng đường.
 Ví dụ : Một con ốc sên bò với vận tốc 12 cm/phút. Hỏi con ốc sên đó bò được quãng đường 1,08m trong thời gian bao lâu?
 Khi dạy dạng toán này, giáo viên cần cho học sinh nhận xét đơn vị đo quãng đường và đơn vị đo vận tốc để từ đó chuyển đổi sao cho phù hợp trước khi vận dụng quy tắc tính thời gian.
 Cụ thể là: Ở đây đơn vị đo vận tốc là cm/phút, đơn vị đo quãng đường là mét. Vậy ta chưa thể áp dụng quy tắc tính thời gian trực tiếp mà cần phải chuyển đổi đơn vị đo sao cho phù hợp.
 Chẳng hạn:
 Bài giải:
 12 cm/phút = 0,12 m/phút 
 Thời gian ốc sên bò hết quãng đường 1,08 m là:
 1,08 : 0,12 = 9(phút).
 Đáp số : 9 phút.
 Hoặc Bài giải:
 1,08 m = 108 cm
 Thời gian ốc sên bò hết quãng đường 1,08 m là:
 108 : 12 = 9(phút).
 Đáp số : 9 phút.
1.2.7. Bài toán có nội dung hình học (chu vi, diện tích, thể tích):
 1.2.7.1. Nội dung:
 Trong chương trình toán 5, bài toán có nội dung hình học là dạng toán chiếm dung lượng nhiều nhất gồm hơn 150 bài toán, được phân bố đan xen gần khắp chương trình Toán 5. Bài toán có nội dung hình học ở lớp 5 tiếp tục củng cố, mở rộng việc áp dụng quy tắc, công thức tính chu vi, diện tích một số hình đã được học ở lớp 4 như hình bình hành, hình chữ nhật, hình vuông, hình thoi. Đồng thời tìm hiểu một số quy tắc, công thức tính chu vi diện tích một số hình như hình thang, hình tam giác, hình tròn. Tìm hiểu và áp dụng một số quy tắc, công thức tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần của hình hộp chữ nhật, diện tích xung quanh, diện tích toàn phần của hình lập phương, thể tích hình lập phương, thể tích hình hộp chữ nhật.
 1.2.7.2. Phương pháp giảng dạy: 
 Đối với các bài toán có nội dung hình học thì việc hình thành biểu tượng về chu vi, diện tích, thể tích là hết sức quan trọng. Trên cơ sở học sinh có khái niệm về biểu tượng sẽ giúp các em dễ dàng hơn trong việc hình thành công thức tính chu vi, diện tích, thể tích của các hình. 
 Chẳng hạn: Muốn hình thành công thức tính thể tích hình hộp chữ nhật, cần giúp học sinh có biểu tượng về thể tích (là toàn bộ phần chiếm chỗ bên trong của một vật). Trên cơ sở có được biểu tượng về thể tích, giáo viên đưa ra mô hình về thể tích để yêu cầu học sinh tính số hình lập phương có bên trong hình hộp chữ nhật theo gợi ý của giáo viên:
 + Hình hộp chữ nhật này có mấy lớp được xếp 
 chồng lên nhau? (3 lớp).
 + Mỗi lớp có mấy hàng? (2 hàng).
 + Mỗi hàng có mấy hình lập phương? (5 hình 
 lập phương).
 Từ đó, cho học sinh đối chiếu với các kích thước tương ứng của hình hộp chữ nhật để hình thành công thức tính thể tích hình hộp chữ nhật
 V = a b c
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ SO SÁNH ĐỐI CHỨNG.
Lớp
Tổng số học sinh
Khá giỏi
Trung bình
Yếu 
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
%
5A6
23
14
60,9
8
34,8
1
4,3
5A3 (đối chứng)
26
6
23,1
17
65,4
3
11,5
 Bảng 2: Kết quả bài kiểm tra giữa kì II. 
	Trên đây là bảng kết quả được tính dựa trên kết quả của bài kiểm tra giữa kì II của học sinh. Sau khi dạy xong các dạng toán cơ bản giáo viên cho học sinh làm bài kiểm tra với một thời gian phù hợp và được tính toán trước. Tôi thấy:
 	Với việc dạy theo phương pháp của đề tài nghiên cứu tôi thấy rằng kết quả đạt cao hơn cách dạy thông thường. Do việc chú ý khắc sâu trọng tâm của bài dạy rồi mỗi loại bài rồi đưa ra các ví dụ gần gũi, sát thực tế để học sinh làm quen sử dụng và thành thạo rèn cho mình có được kỹ năng giải toán cho từng loại.
 PHẦN THỨ BA
KẾT LUẬN
 I. Ý NGHĨA.
	 Dạy học là một quá trình. Muốn dạy học có kết quả như mong muốn đòi hỏi cần phải có sự hợp tác của nhiều thành phần, nhiều đối tượng. Toán học là môn học mang tính lô-gích cao và chi phối cho nhiều hoạt động trong các môn học khác. Có thể nói rằng: trong tất cả các môn học thi không có môn học nào là không sử dụng yếu tố toán học. Vì vậy việc hình thành kĩ năng học toán nói chung và kĩ năng giải các bài toán điển hình ở lớp 5 là đặt nền móng cho sự phôi thai của quá trình học tập của học sinh.
 Có thể nói quá trình dạy học là quá trình quan trọng bậc nhất, nó là quá trình sư phạm tổng thể. Nó được thực hiện ở các bậc học khác nhau nhưng dù ở bậc học nào thì quá trình đó vẫn mang quy luật thống nhất giữa hoạt động dạy và học. Luôn phản ánh mối quan hệ tất yếu, chủ yếu và bền vững giữa 2 nhân tố đặc trưng của quá trình dạy học.
	Trong công tác giảng dạy, vai trò của người thầy rất quan trọng. Người giáo viên cần phải cung cấp cho học sinh các kiến thức một cách đầy đủ, chính xác và có hệ thống. Ngoài ra, người giáo viên cần thường xuyên rèn luyện cho các em những kỹ năng cần thiết giúp các em có phương pháp vận dụng kiến thức đã học vào việc giải các bài tập liên quan đến thực tiễn.
	II. KẾT LUẬN CHUNG
	Trong hoạt động dạy học, người giáo viên đóng vai trò chủ đạo tác động sư phạm lên hoạt động nhận thức của học sinh. Để thực hiện tốt hoạt động dạy của mình người giáo viên cần sử dụng tốt các phương pháp dạy học nhằm truyền thụ trí thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh. Đối với hoạt động của học sinh, chúng ta thấy học sinh không chỉ là đối tượng tác động sư phạm của người giáo viên mà còn là chủ thể của hoạt động nhận thức. Người học sinh chủ động tiếp thu tri thức, rèn kỹ năng kỹ xảo mà giáo viên truyền thụ cho. Chính vì vậy, trong học tập, nhất thiết phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa giáo viên và học sinh thì hoạt động dạy của giáo viên mới có hiệu quả và hoạt động học tập của học sinh mới thực sự có chất lượng. Một trong những vấn đề quan trọng mang tính chất quyết định đến kết quả học tập đó là việc phát triển tư duy. Môn Toán là một trong những môn học giúp cho học sinh hình thành và phát triển tư duy. Trong mục tiêu của chương trình môn Toán ở Tiểu học, việc hình thành kĩ năng giải các bài toán điển hình là mức độ yêu cầu cao nhất ở học sinh tiểu học. Vì vậy, việc hình thành kĩ năng giải các bài toán điển hình ở lớp 5 là một giai đoạn rất quan trọng, hết sức cần thiết và không thể thiếu ở bậc tiểu học. Với việc nghiên cứu và áp dụng các phương pháp của đề tài “Các bài toán điển hình ở lớp 5 và phương pháp giảng dạy” đã bước đầu mang lại kết quả tốt đẹp. Rất mong sự quan tâm, chia sẻ của các bạn đồng nghiệp để đề tài ngày càng được hoàn thiện hơn.
	III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ.
	1. Đối với giáo viên.
	Điều cần thiết và không thể coi nhẹ là giáo viên phải dạy tốt lý thuyểt, từ đó mới phát triển được các tư duy suy luận cho học sinh. Để rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh thì trong quá trình giảng dạy học giải toán lên kết hợp và lựa chọn các phương pháp dạy tốt. Khi dạy học sinh giải toán điển hình, với mỗi loại toán giáo viên không chỉ giúp học sinh giải đúng bài tập trong sách giáo khoa mà cần rèn khả năng giải loại toán đó, đặt ra các tình huống để các em suy nghĩ, tìm tòi cách giải khác nhau.
	2. Đối với học sinh.
	Học sinh phải tự giác tích cực tiếp thu kiến thức nhằm trang bị cho mình những kỹ năng thực hành giải toán thành thạo. Học sinh phải nắm vững phương pháp chung để giải các bài toán điển hình. Từ đó, đào sâu suy nghĩ tìm tòi cách giải khác nhau.	
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 1. Nguyễn Thanh Hưng (2008), Phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục.
 2. Nguyễn Thanh Hưng (2007), Đại lượng và đại lượng đo lường, Nhà xuất bản Giáo dục.
 3. Toán 5 (2005), Nhà xuất bản Giáo dục.
 4. Toán 5 Sách giáo viên (2005), Nhà xuất bản Giáo dục.
PHỤ LỤC
 1. Lời cảm ơn....................3
 PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
 1. Lí do chọn đề tài..4
 2. Mục đích nghiên cứu...................4
 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.....................4
 4. Nhiệm vụ nghiên cứu...4
 5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu..4
 6. Phương pháp nghiên cứu. ...................4
 PHẦN THỨ HAI: 
 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN... .5
 1. Cơ sở khoa học. .5
 2. Thực trạng hiện nay....................5
 CHƯƠNG II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
 1. Xá định các bước giải bài toán điển hình...7
 2. Các bài toán điển hình lớp 5 và phương pháp giảng dạy9
 3. Bài toán về trung bình cộng9
 4. Bài toán về tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó10
 5. Bài toán về tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó11
 6. Bài toán về tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó12
 7. Bài toán có liên quan đến tỉ lệ...13
 8. Bài toán về tỉ số phần trăm...15
 9. Bài toán chuyển động đều 19
 10. Bài toán có nội dung hình học.22
 11. Kết quả thực hiện có so sánh đối chứng..23
 PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
 1. Ý nghĩa.25
 2. Kết luận chung .25
 3. Đề xuất, kiến nghị . . 26
 TÀI LIỆU THAM KHẢO . .27 

Tài liệu đính kèm:

  • docdien hinh.doc