Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa của học sinh lớp 5

Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa của học sinh lớp 5

Trong từ vựng có những từ một nghĩa như:bươn, hiền, điềm tỉnh tuy nhiên phổ biến hơn là những từ nhiều nghĩa. Các từ đơn thường nhiều nghĩa hơn các từ phức. VD:máy, làm, dắt là những từ nhiều nghĩa nhưng máy may, máy tiện, máy nổ là những từ một nghĩa. Tùy theo chức năng mà từ chuyển đảm nhiệm trong ý nghĩa của từ có những thành phần ý nghĩa khác nhau:

 -Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật.

 

doc 8 trang Người đăng van.nhut Lượt xem 980Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa của học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÁC TIẾT HỌC VỀ TỪ NHIỀU NGHĨA CỦA HỌC SINH LỚP 5
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ 
1.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SKKN :
 Trong từ vựng có những từ một nghĩa như:bươn, hiền, điềm tỉnh tuy nhiên phổ biến hơn là những từ nhiều nghĩa. Các từ đơn thường nhiều nghĩa hơn các từ phức. VD:máy, làm, dắtlà những từ nhiều nghĩa nhưng máy may, máy tiện, máy nổ là những từ một nghĩa. Tùy theo chức năng mà từ chuyển đảm nhiệm trong ý nghĩa của từ có những thành phần ý nghĩa khác nhau:
 -Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật.
 -Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm.
 -Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái.
 Ngoài ra từ các có ý nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp trong câu.
 Trước đây khi nghiên cứu về nghĩa của từ các nhà nghiên cứu thường vận dụng cách phân biệt nghĩa đen và nghĩa bóng hoặc nghĩa hẹp và nghĩa rộng để phân biệt các nghĩa hiện dùng của một từ .
 Theo SGK Tiếng Việt 5: Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển .Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ có mối liên hệ với nhau.
 Theo cách phân chia này nghĩa của từ được chia làm hai loại: nghĩa gốc và nghĩa chuyển. Nghĩa gốc là cái nghĩa chỉ vật, khái niệm mà những người trong một cộng đồng ngôn ngữ thường hiểu đối một từ nào đó khi nó đứng một mình, ít bị phụ thuộc vào những từ đi trước hoặc sau nó. Nghĩa chuyển là nghĩa chuyển được suy ra từ nghĩa gốc .Ví dụ: Đối với từ chân nghĩa “chi dưới của động vật”, đối với từ nhà nghĩa “công trình kiến trúc để ở”, đối với từ chạy nghĩa :“dời chổ bằng chân với tốc độ cao”, đối với chín nghĩa “chỉ trạng thái của quả cây” là nghĩa gốc thì các nghĩa còn lại của mỗi từ đều là nghĩa chuyển.
 Mặt khác các từ trong cùng một phạm vi biểu vật thường chuyển nghĩa theo một hướng nên nghĩa gốc và nghĩa chuyển có tính chất giống nhau.
 Ví dụ: Nếu xem nghĩa “ bộ phận cơ thể người, động vật” là nghĩa gốc của từ tay thì đó cũng là nghĩa gốc của từ: đầu, mặt,cổ, chân, cánh, lưng, bụng.và các nghĩa của các từ trên trong các tổ hợp sau đây là nghĩa chuyển của chúng: tay ghế, tay áo, đầu bút, đầu sóng, mặt bàn, tai mũ, tai chén, cổ áo, cổ chai, cánh quạt lưng áo, lưng quần, lưng ghế, chân bàn, chân mây, ruột bút, ruột máy
 Từ có thể chuyển nghĩa dựa trên sự giống nhau về vị trí hoặc hình thức của các sự vật như: lòng sông, đầu làng, ngọn núi. Từ cũng có thể chuyển nghĩa dựa trên sự giống nhau về chức năng của sự vật như: bến trong bến xe, bến tàu điện giống với bến đò, bến sông vì cùng chỉ chức năng đầu mối giao thông.
 Có khi người ta dùng tên gọi của những giác quan này để gọi tên những cảm giác của những giác quan khác hay những cảm giác trí tuệ, tình cảm như: “chua”, “nhạt”, “mặn”, “chát” là những cảm giác vị giác được dùng để gọi tên các cảm giác thính giác : “nói chua loét”, “lời nói ngọt ngào”, “pha trò nhạt quá”, “nói cay quá” 
 	 Cũng có nhiều khi từ chuyển nghĩa bằng cách lấy tên gọi bộ phận cơ thể thay cho cả cơ thể, cho cả người hay cả toàn thể . Ví dụ: chân, tay, miệng là tên gọi bộ phận cơ thể nhưng trong các tập hợp sau: “có chân trong đội bóng đá”, “ một tay cờ xuất sắc”, “ gia đình bảy tám miệng ăn” chúng chỉ cả người hay cả cơ thể trọn vẹn. 
 Cũng có khi lấy tên gọi của đơn vị thời gian nhỏ gọi tên đơn vị thời gian. Ví dụ xuân là tên gọi một mùa nhưng nó có thể để chỉ năm “ bảy mươi xuân”.
Trong Tiếng Việt lại có hiện tượng đồng âm, đó là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa. Ví dụ từ chín trong “lúa chín” và trong “suy nghĩ chín chắn” là từ nhiều nghĩa và nó đồng âm với chín trong “số chín”.
	Như vậy dạy học từ nhiều nghĩa ở tiểu học rất phức tạp. Là giáo viên giảng dạy lớp 5 giáo viên cần phải nắm vững kiến thức về từ nhiều nghĩa, các cách thức chuyển nghĩa của từ để từ đó có thể lựa chọn phương pháp hướng dẫn học sinh học tập phù hợp.
	Đối với học simh lớp 5, chúng ta không thể yêu cầu học sinh nắm vững các thành phần ý nghĩa của từ, cách thức chuyển nghĩa của từ song yêu cầu học sinh phải giải nghĩa một số từ thông qua các câu văn, các cụm từ cụ thể, xác định được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ, phân biệt từ nhiều nghĩa với từ đồng âm, tìm được một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của từ, đặt câu với các nghĩa của từ nhiều nghĩa.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA SKKN:
a.Những khó khăn mà học sinh thường gặp phải 
Hầu hết học sinh lớp 5 khi học các tiết luyện từ và câu về từ nhiều nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể là:
	-Khó khăn trong việc giải nghĩa các từ: học sinh còn giải nghĩa từ sai, lúng túng và còn lủng củng.
	-Phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ: học sinh còn làm sai đến 40-45%.
	-Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa: còn mơ hồ, định tính.
	-Đặt câu có sử dụng từ nhiều nghĩa: chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
Kết quả khảo sát đầu năm môn luyện từ và câu của lớp 5C như sau:
TSHS
Giỏi
Khá
T.Bình
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
37
10
28%
8
22%
14
39%
5
11%
b. Các bài tập trong SGK tiếng Việt 5:
	1/ Tìm nghĩa của từ.
	2/So sánh các nghĩa của từ: giống nhau và khác nhau.
	3/Tìm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của một số từ thông qua một só câu cụ thể.
	4/Tìm một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của từ:Vd: lưng, cổ, miệng, lưỡi
	5/Đặt câu để phân biệt được các nghĩa của từ nhiều nghĩa là động từ hoặc tính ví dụ như: đi, đứng, chín..
	6/Phân biệt từ nhiều nghĩa với từ đồng âm.
c. Nguyên nhân củ những khó khăn:
Như trên đã nói từ nhiều nghĩa là một khái niệm rất khó đối với học sinh tiểu học lứa tuổi mà vốn kiến thức ngữ nghĩa còn ít. Mặt khác do các bài tập trong SGK nhiều, đa dạng và cấu tạo tương đối khó đối với học sinh.
	Mặt khác do giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong việc giúp học sinh nắm vững hiện tượng nhiều nghĩa của từ, còn lúng túng trong việc giải nghĩa các từ nhiều nghĩa.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Về mặt lí luận, phương pháp:
a. Giáo viên phải nắm vững kiến thức về từ nhiều nghĩa:
	Phương pháp dạy học mới không cho phép giáo viên cung cấp kiến thức cho học sinh theo kiểu truyền thụ một chiều song lại yêu cầu giáo viên phải nắm vững kiến thức sâu sắc để hướng dẫn, làm trọng tài khoa học cho học sinh. Đối với các tiết luyện từ và câu về từ nhiều nghĩa vốn kiến thức của giáo viên lại đặc biệt quan trọng. Muốn có điều này giáo viên phải bồi dưỡng, nghiên cứu tài liệu kĩ, đặc biệt phải nắm rõ các nghĩa của từ một cách chính xác.
VD: Khi dạy bài “Từ nhiều nghĩa” SGK đưa ra hai nghĩa của từ: tai, răng, mũi thì giáo viên còn phải nắm thêm một số nét nghĩa nữa. 
Ví dụ : Từ “ mũi” có một số nét nghĩa sau:
Bộ phận củ cơ quan hô hấp.
Phần trước của tàu thuyền.
Bộ phận nhọn của vũ khí: mũi dao, mũi súng.
Phần đất nhô ra ngoài biển: mũi đất, mũi cà Mau.
Năng lực cảm giác về mũi: Con chó có mũi thính.
Đơn vị quân đội : mũi quân bên trái.
b. Thiết kế hệ thống bài tập:
	Phiếu học tập cho nhóm hoặc cá nhân là một trong những hình thức học tập rất hữu hiệu giúp học sinh có thể tích cực, chủ động trong học tập.Mặt khác nó còn giúp giáo viên nắm được kết quả ngược từ học sinh một cách chính xác, từ đó giáo viên có thể linh hoạt trong việc giảng dạy, học sinh nắm vững nội dung bài học. Phiếu học tập cần được thiết kế bằng hệ thống các bài tập trắc nghiệm khách quan như: nối, đúng- sai, nhiều lựa chọn
c. Cần sử dụng các phương pháp dạy học mới: 
 Để dạy tốt các tiết học về từ nhiều nghĩa giáo viên cần đưa các phương pháp dạy học mới như phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp trò chơi
-Phương pháp thảo luận nhóm: Nhằm giúp học sinh tham gia tính cực chủ động vào quá trình học tập, học sinh có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến hay để cùng giải quyết một vấn đề khó khăn nào đó.
-Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề: Nhằm mục đích đưa học sinh và tình huống có vấn đề, từ đó kích thích sự hứng thú học tập của học sinh vào việc giải quyết vấn đề đưa ra.
VD: Bài “ Luyện tập về từ nhiều nghĩa” trang 73.
? Đặt một câu có từ chạy .
Học sinh đặt câu.
? Từ chạy trong câu trên có nghĩa là gì?
Học sinh không giải thích được. Giáo viên cho học sinh làm bài tập 1 SGK
d. Cần chuẩn bị tốt tâm thế học tập cho học sinh
Giáo viên cần phải giao nhiệm vụ cho học sinh rõ ràng, kích thích hứng thú học tập của các em bằng các hình thức thi đua, khen thưởng. ngoài ra giáo viên cần kiểm tra bài vở học sinh kể cả học sinh yếu lẫn học sinh khá, giỏi để tất cả các em cùng học tập, tránh tình trạng vì kiến thức quá khó nên một vài học sinh không học tập hoặc học tập không hiệu quả.
2 Về mặt thực tiễn
a. Khi dạy bài “Từ nhiều nghĩa”:
 	Mục tiêu của bài học này là giúp học sinh nắm vững khái niệm về từ nhiều nghĩa, phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ. Xác định được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. Tìm được nghĩa chuyển của một số danh từ chỉ bộ phận cơ thể người , động vật.
	Để giúp học sinh hiểu thế nào là từ nhiều nghĩa, giáo viên hướng dẫn học sinh từ nhận xét 1, học sinh có thể nêu ra một số ví dụ về nghĩa của từ đó. Ví dụ: răng em bé, răng sữa, răng mèoĐể đến nhận xét 2, học sinh tìm thêm được từ chứa tiếng mới: răng cào, từ đó giúp học sinh hiểu được răng của chiếc cào không nhai được như răng người hay động vật nhưng vẫn gọi là răng vì chúng chỉ vật nhọn, sắc, sắp đều nhau thành hàng. Sau đó yêu cầu học sinh tìm thêm các từ chứa tiếng răng có nghĩa như răng cào: răng lược, răng bừaTiếp theo đó yêu cầu học sinh nhận xét được từ răng qua nhận xét 1 và 2 có 2 nghĩa:
Nghĩa ở nhận xét 1 là nghĩa gốc.
Nghĩa ở nhận xét 1 là nghĩa chuyển.
Hai nghĩa này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Sau khi học sinh nắm vững nhận xét 1 và 2 cần đặt câu hỏi vấn đáp để giúp học sinh nhớ khái niệm từ nhiều nghĩa, yêu cầu học sinh lấy ví dụ về từ nhiều nghĩa. Giáo viên cùng học sinh phân tích từ vừa tím được. Nếu học sinh còn lúng túng, giáo viên có thể lấy ví dụ về từ nhiều nghĩa trong các kết hợp từ khác nhau.
Ví dụ: Đi
 - Nó chạy còn tôi đi.
Chân nó không đi giày.
Ca nô đi nhanh hơn thuyền.
Đối với ví dụ này giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét được từ đi trong câu 1 có nghĩa là di chuyển từ nơi này sang này sang nơi khác bằng những bước chân. Từ đi trong câu thứ 2 có nghĩa là mang hay đeo vào. Từ đi trong câu thứ 3 có nghĩa là chuyển động của cá phương tiện giao thông. Để rút ra kết luận đi trong câu 1 là nghĩa gốc vì nó chỉ hoạt động của cơ thể người, từ đi trong câu 2, câu 3 là nghĩa chuyển vì nghĩa của nó được suy ra từ nghĩa gốc và nó có mối liên hệ về nghĩa với từ đi trong câu 1.
-Với bài tập có dạng tìm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ trong các câu văn giáo viên nên cho học sinh thảo luận, phát biểu ý kiến của mình sau khi học sinh đã rút ra được kết quả đúng. Giáo viên nên yêu cầu học sinh tìm thêm một số câu hay từ chứa tiếngđó mang nghĩa chuyển.
Ví dụ với từ: - Mắt: mắt kính, mắt tre, mắt lưới,mắt xích
	- Chân: chân bàn, chân lưới, chân núi, chân mây
	- Đầu: chải đầu, đầu tàu hỏa, đầu đũa, đầu người( thành viên trong một gia đình)
- Với bài tập 2 của phần luyện tập của tiết học yêu cầu học sinh tìm sự chuyể nghĩa của từ cổ, tay, lưng, lưỡi, miệng. Giáo viên giúp học sinh ghi nhớ được nhận xét các từ chỉ bộ phận cơ thể người và động vật là những từ nhiều nghĩa và nó luôn là nghĩa gốc của từ.
b. Khi dạy các tiết “Luyện tập về từ nhiều nghĩa”:
	Trong SGK Tiếng Việt 5, sau khi học bài khái niệm từ nhiều nghĩa có 3 tiết dành để luyện tập về từ nhiều nghĩa. Ở các tiết luyện tập này giáo viên cần củng cố cho học sinh về khái niệm về từ nhiều nghĩa, nghĩa gốc và nghĩa chuyển. mối liên hệ về nghĩa của từ nhiều nghĩa.
	* Để tránh sự nhàm chán, gây hứng thú cho học sinh, đối với các bài tập tìm nghĩa ở cột A ứng với nghĩa ở cột B giáo viên nên tổ chức các trò chơi học tập như trò chơi: “Nhà giải nghĩa giỏi”, “ Ai nhanh hơn”, “Ai giỏi hơn”. Đồng thời sau khi học sinh chơi phải yêu cầu học sinh nêu lí do vì sao em làm như vậy.
* Đối với các bài tập yêu cầu học sinh đặt câu để phân biệt từ nhiều nghĩa là động từ hay tính từ, giáo viên nên hướng dẫn học sinh tìm từ ứng với từng nghĩa rồi đặt câu với những từ vừa tìm được. Nên khuyến khích học sinh tìm được nhiều từ, có khi đó là những từ có nghĩa khác với yêu cầu nhưng như vậy cũng tốt vì như thế học sinh sẽ nắm vững nghĩa hơn sau khi được giải thích từ giáo viên .
 Ví dụ : Đi Nghĩa 1: Tự di chuyển bằng hai chân: đi bộ, tập đi
	Nghĩa 2: Mang, xỏ vào chân hoặc tay để che, giữ.
 Học sinh có thể đặt câu:Nghĩa 1: Em đi bộ đến trường.
	 Bé Na đang tập đi.
 	 Nghĩa 2: Em đi dép quai hậu đến trường
 Mùa đông phải đi tất để giữ ấm đôi chân.
 	Nhận xét: Đi nghĩa 1 mang nghĩa gốc vì nó chỉ hoạt động di chuyển bằng hai chân của con người. Còn đi nghĩa 2 là nghĩa chuyển, mặc dù nó không chỉ hoạt động di chuyển bằng hai chân của con người nhưng đều chỉ hoạt động mang, xỏ cái gì đó vào chân, tay.
	Song song với biện pháp trên đối với dạng bài tập này để giúp học sinh phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển, giáo viên nên sử dụng một số câu hỏi để giúp học sinh hình dung ra nghĩa ban đầu của nó.
	Ví dụ: 
	? Nhắc đến ngọt ta có cảm giác thế nào?(ngọt của đường, mật)
	? Từ ăn gợi cho ta hoạt động gì của bộ phận nào?(hoạt động đưa thức ăn vào miệng)
	? Từ đi gợi cho ta hoạt dộng của cái gì?(sự di chuyển của hai chân)
Nhờ thế học sinh sẽ dễ dàng nhận ra nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ trong dạng bài tập này và cũng nhờ thế nên chắc chắn học sinh sẽ dễ dàng đặt câu theo yêu cầu bài tập hơn rất nhiều.
* Dạng bài tập yêu cầu phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa là một dạng bài tập khó đối với học sinh vì học sinh rất khó khăn trong việc gọi ra nét nghĩa của từng từ trong các kết hợp khác nhau. So sánh nó với các kết hợp bên cạnh để xác đinh nó là đồng âm hay nhiều nghĩa.
Trước khi làm bài tập giáo viên phải yêu cầu học sinh nêu khái niệm về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Mối quan hệ về ý nghĩa của từ đồng âm (khác nhau hoàn toàn), nghĩa của từ nhiều nghĩa( bao giờ cũng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau).
Để giúp học sinh làm tốt dạng bài tập này giáo viên nên sử dụng phiếu học tập cho nhóm, cá nhân hoặc cả lớp để học sinh tìm nghĩa của nó cho phù hợp rồi nêu nhân xét đó là từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa.
Ví dụ: a) Chín
Câu có từ chín
Nghĩa của từ chín trong câu
- Lúa ngoài đồng chín vàng.
1. Suy nghĩ kĩ càng.
- Tổ em có chín học sinh.
2. Hoa, quả, hạt phát triển đến mức thu hoạch được.
- Nghĩ cho chín rồi hãy nói.
3. Số 9.
 Chín. với chín  là từ nhiều nghĩa, đồng âm với chín.
b) Đường
Câu có từ đường
Nghĩa của từ đường trong câu
- Bát chè này nhiều đường nên rất ngọt.
1. Chất kết tinh vị ngọt.
-Các chú công nhân đang chữa đường dây điện thoại. 
2. Vật nối liền hai đầu.
- Ngoài đường, mọi người đã đi lại nhộn nhịp.
3.Chỉ lối đi lại.
	Đường .. với đường .. là từ nhiều nghĩa, đồng âm với đường 
* Sau mỗi tiết luyện tập để củng cố kiến thức cho học sinh, giáo viên có thể đưa ra thêm một số dạng bài tập mới. mục đích của các bài tập này là củng cố, mở rộng kiến thức từ nhiều nghĩa.
Dạng bài tập 1: Tìm từ đồng nghĩa có tể thay thế từ nhiều nghĩa trong các câu văn.
Ví dụ : Tìm từ có thể thay thế từ ăn trong câu sau:
	- Cả nhà ăn tối chưa?	 (dùng bữa)
	- Loại ô tô này ăn xăng lắm. (tốn, hao)
	- Tàu ăn hàng ở cảng.	 (tiếp nhận)
	- Bà Đào ăn lương rất cao	 (hưởng)
 - Cậu làm như vậy dễ ăn đòn lắm. (chịu)
	- Da cậu ăn nắng quá.	 (bắt)
	- Hồ dán không ăn. (dính)
	- Hai màu này rất ăn với nhau. (hợp)
	- Rễ tre ăn ra tới ruộng. (lan)
Dạng bài tập 2: Cho từ trong các kết hợp từ, tìm nghĩa của nó tương ứng.
Ví dụ: Trong thành ngữ: “ Chạy thầy chạy thuốc” dòng nào dưới đây nêu đúng nét nghĩa của từ chạy? Chọn câu trả lời đúng: 
Di chuyển nhanh bằng chân.
Hoạt động của máy móc.
Lo liệu khẩn trương để được cái mình cần.
Khẩn trương tránh những điều không may xảy đến.
Dạng bài tập 3: Cho nghĩa của từ trong kết hợp từ, câu văn tìm câu có từ dùng với nghĩa đó.
Ví dụ : Câu nào dưới đây từ đánh được dùng với nghĩa “ xoa hoặc xát lên bề mặt của vật để vật sạch sạch, đẹp”
Bọn trẻ chơi trò đánh trận giả. 
Các bác nông dân đang đánh trâu ra đồng.
Sau bữa tối, ông và bố thường đánh cờ.
Hàng tuần vào ngày nghỉ, bố thường đánh giày.
 III. KẾT QUẢ ỨNG DỤNG, TRIỂN KHAI VÀ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1.THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM:
 Tôi tiến hành thực nghiệm bài dạy này trên lớp 5C
Lớp 5C:Lớp thực nghiệm:37. học sinh
Kết quả cuối học học kỳ 1 như sau:
TSHS
Giỏi
Khá
T.Bình
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
37
23
64%
9
25%
5
11%
 Qua kết quả trên ta thấy nếu giáo viên khéo léo trong việc sử dụng các biện pháp dạy học mới, kích thích được hứng thú học tập của học sinh thì kết quả học tập của các em sẽ tốt hơn từ đó nâng cao kết quả dạy học môn Tiếng Việt nói chung và chất lượng giáo dục tiểu học nói riêng.
2.KẾT LUẬN	
Dạy học từ nhiều nghĩa ở tiểu học là một vấn đề rất khó và phức tạp. Việc nắm vững các kiến thức về từ nhiều nghĩa góp phần quan trọng nâng cao kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh để từ đó học sinh có thể giao tiếp tốt trong môi trường hoạt động lứa tuổi. Thực tế hiện nay chất lượng các tiết học về từ nhiều nghĩa chưa cao, học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong những tiết học. Giáo viên chưa lôi cuốn thu hút được học sinh vào hoạt động học tập tích cực. Nguyên nhân của vấn đề này có từ hai phía: giáo viên và học sinh. Qua nghiên cứu tôi cũng nhận thấy rằng nếu trong quá trình dạy học giáo viên sử dụng khéo léo các phương pháp dạy học, các hình thức dạy học khác nhau có thể phát huy được tính tích cực của học sinh và kích thích, lôi kéo các em vào quá trình học tập, từ đó nâng cao hiệu quả dạy học.
3. KIẾN NGHỊ
	Qua 2 năm nghiên cứu thử nghiệm tôi nhận thấy để dạy các tiết học về từ nhiều nghĩa có kết quả cao, hạn chế được những khó khăn của học sinh khi học từ nhiều nghĩa đồng thời kích thích hứng thú học tập, nâng cao chất lượng học tập của học sinh, tôi xin đề xuất một số biện pháp sau:
a.Giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ SGK chuẩn về kiến thức, kĩ năng, tài liệu tham khảo về hiện tượng nhiều nghĩa của từ để từ đó nắm vững, giải nghĩa từ một cách chính xác. 
b. Giáo viên cần phải nghiên cứu tình hình học tập của học sinh, xác định những khó khăn mà học sinh lớp mình gặp phải để từ đó có biện pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả các tiết học.
c. Với mỗi tiết học giáo viên cần phải phân loại các dạng bài tập, lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau để kích thích hứng thú học tập của học sinh.
d. Sau mỗi bài học giáo viên nên đưa ra một số dạng bài tập khác nhau để củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh.
Là một giáo viên đã nhiều năm giảng dạy ở khối lớp 5, cũng đã có một số kinh nghiệm bản thân song chưa nhiều, thời gian và điều kiện nghiên cứu hạn chế nên CTSKKN chắc chắn còn có nhiều thiếu sót. Rất mong hội đồng khoa học nhà trường đọc và góp ý để đề tài hoàn thiện hơn. 
	.......Hà Đông..ngày 17 tháng 4 năm 2011
	 Người viết SKKN
 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm
PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG:
...............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn(10).doc