Từ xưa đến nay, cha ông chúng ta rất coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nhân tài: “ Những người tài giỏi là yếu tố cốt tử của một chính thể. Khi yếu tố này dồi dào thì đất nước phát triển mạnh mẽ, phồn vinh. Những người tài giỏi có học thức là một sức mạnh đặc biệt quan trọng đối với đất nước.” . Chính vì vậy, quốc gia nào cũng đều đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Bác Hồ đã từng nói: “Nước nhà cần phải kiến thiết, kiến thiết cần phải có nhân tài”. Thực tế cho thấy các nước phát triển trên thế giới đều phải nhờ vào nội lực. Nội lực đó không phải chỉ có tài nguyên, sức lao động mà quan trọng hơn đó chính là nhân tài.
Phần mở đầu I. Lí do chọn đề tài 1.Cơ sở lí luận Từ xưa đến nay, cha ông chúng ta rất coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nhân tài: “ Những người tài giỏi là yếu tố cốt tử của một chính thể. Khi yếu tố này dồi dào thì đất nước phát triển mạnh mẽ, phồn vinh. Những người tài giỏi có học thức là một sức mạnh đặc biệt quan trọng đối với đất nước...” . Chính vì vậy, quốc gia nào cũng đều đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Bác Hồ đã từng nói: “Nước nhà cần phải kiến thiết, kiến thiết cần phải có nhân tài”. Thực tế cho thấy các nước phát triển trên thế giới đều phải nhờ vào nội lực. Nội lực đó không phải chỉ có tài nguyên, sức lao động mà quan trọng hơn đó chính là nhân tài. Vì vậy, nói đến nội lực chúng ta nghĩ đến trí tuệ, tài năng - kho chất xám. Dân tộc nào huy động được tiềm năng, trí tuệ thì đân tộc đó sẽ phát triển. Chính vì lẽ đó, chúng ta cần chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng và phát huy nhân tài. Để giải quyết được vấn đề trên, công việc này phụ thuộc hoàn toàn và giáo dục. Một nền giáo dục có chất lượng là một nền giáo dục đáp ứng cả ba yêu cầu về dân trí, nhân lực, nhân tài. Không phải là tất cả, nhưng hầu hết nhân tài được đào tạo từ bậc Tiểu học lên đến Đại học. Trường Tiểu học là vườn ươm những tài năng của đất nước, là môi trường quan trọng để phát triển những học sinh năng khiếu. Tài năng không được phát hiện sớm và chăm lo bồi dưỡng thì sẽ dần bị mai một đi. Vì vậy, công tác tổ chức, bồi dưỡng học sinh giỏi cần được quan tâm đúng mức, đặc biệt là ở bậc Tiểu học. Nghị quyết TWII (Khoá VIII) nhấn mạnh: “ Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện bậc Tiểu học và phát triển thế lực, trí tuệ, tâm lực cho mỗi người, giúp họ vững vàng trước cuộc sống, trong đó đặc biệt coi trọng việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài” Nhân tài không phải cứ tự nhiên mà phát triển, nó chỉ có thể phát triển cùng với sự nỗ lực học tập, tu dưỡng thường xuyên của mỗi người. Đặc biệt, nó được phát triển tốt trong hoàn cảnh đất nước thịnh vượng và được sự quan tâm của mọi thành viên, mọi tổ chức của xã hội. 2.Cơ sở thực tiễn Sự phát triển của mỗi người nói chung và năng khiếu nói riêng được thể hiện rất sớm. Thực tế nhiều em ở lứa tuổi 6 - 11 tuổi đã bộc lộ rõ năng khiếu về âm nhạc, mĩ thuật, toán, văn, ... Song có năng khiếu mà không được bồi dưỡng thì sẽ dần tàn lụi theo thời gian. Có năng khiếu toán (yếu tố chủ quan) mà được gia đình, nhà trường bồi dưỡng chu đáo (yếu tố khách quan) thì có thể trở thành học sinh giỏi toán. Một học sinh có năng khiếu toán có thể: - Trở thành học sinh giỏi toán: Nếu được quan tâm, bồi dưỡng. - Chỉ đạt mức trung bình: Nếu không có sự quan tâm và bồi dưỡng. Phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu học toán là trách nhiệm của giáo viên và phụ huynh học sinh. Trước thực tế trên, trong quá trình thực hiện tôi xin đưa ra một vài kinh nghiệm trong việc: “ Phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu học toán lớp 5” II. Mục đích nghiên cứu 1.Thực trạng của việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu học toán 5. 2. Những đề xuất, giải pháp để phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu học toán 5. III. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lí luận - Xác định nội dung, phương pháp, mức độ yêu cầu của việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu học toán 5. - Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến nội dung đã nêu. 2. Nghiên cứu thực tiễn - Nghiên cứu tiết dạy, kiểm tra, đánh giá kết quả. - Đề xuất một số giải pháp nhằm giúp giáo viên phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu học toán 5. VI. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu về việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu học toán ở lớp 5A1 Trường Tiểu học Số 1 Thị trấn Tân Uyên. Phạm vi nghiên cứu Phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu học toán 5 V. Phương pháp nghiên cứu - Thu thập tài liệu, tìm đọc, phân tích tài liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu. - Khảo sát, điều tra, thực nghiệm, rút kinh nghiệm. - Xử lí các thông tin. Nội dung nghiên cứu I. Điều tra thực trạng Qua thực tế giảng dạy và làm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi toán ở trường Tiểu học Số 1 Thị trấn Tân Uyên tôi thấy: - Đại đa số cha mẹ học sinh luôn quan tâm, có nguyện vọng bồi dưỡng cho con mình khi học toán. - Một số giáo viên còn lúng túng trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu toán vì bản thân giáo viên còn chưa nắm bắt được những biểu hiện để phát hiện học sinh có năng khiếu học toán. - Kết quả học sinh học giỏi toán chưa cao. Cụ thể trong 22 em học sinh lớp 5A1, số em thích học môn toán chỉ có khoảng 9 em chiếm 40,9%. Những em học toán nhanh nhẹn, nắm bắt tốt vấn đề chỉ đạt 5 em chiếm 22,7%. II. Đề xuất, giải pháp Phát hiện học sinh có năng khiếu học toán * Quá trình thực tiễn và những biểu hiện để phát hiện học sinh có năng khiếu học toán. Trong công tác, qua thực tế giảng dạy, tôi quan sát và nhận thấy: Trong cùng một lớp học có những học sinh hoạt động nhận thức, tư duy thể hiện tính chất linh hoạt, sáng tạo, mềm dẻo. Khi giải quyết nhiệm vụ học tập thường có biểu hiện sau: Có khả năng thay đổi phương thức hành động để giải quyết vấn đề phù hợp với những thay đổi của các điều kiện Có khả năng chuyển từ trừu tượng, khái quát sang cụ thể và ngược lại. Có khả năng xác lập sự phụ thuộc giữa các dữ kiện theo hai hướng xuôi và ngược. Có ý thức tìm tòi nhiều lời giải đáp khác nhau cho một vấn đề, một tình huống, một bài toán hoặc thích xem xét một vấn đề nào đó theo nhiều khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn khi đã thấy qua một số ví dụ cụ thể nói chung tích của hai số tự nhiên là một số lớn hơn từng thừa số, đặt vấn đề tìm các phản ví dụ, phủ định phán đoán đó. Có sự quan sát tinh tế: Biết phát hiện nhanh các dấu hiệu chung và riêng, mau chóng phát hiện điểm nút để tháo gỡ bằng cách tìm hướng giải quyết vấn đề hợp lí, độc đáo, nhanh gọn, sáng tạo. Có trí tưởng tượng phát triển: Khả năng này dễ bộc lộ trong quá trình học hình học hoặc giải các bài toán có lời văn đòi hỏi sự liên hệ, liên tưởng. Khi học hình học các em có khả năng hình dung ra cách biến đổi hình một cách linh hoạt ( Di chuyển, thay đổi hình từ dạng này sang dạng khác nhưng giữ nguyên một số yếu tố cố định như thể tích, diện tích, ...) Có khả năng lập luận, suy luận bằng căn cứ rõ ràng. Có óc tò mò, không muốn dừng lại ở việc làm mẫu theo một định hướng cho sẵn. Không sớm toại nguyện, thường hay thắc mắc có lí trước những vấn đề, hay hoài nghi có ý kiểm tra việc mình đã làm. Ví dụ: Hãy chia hình vuông thành 4 hình tam giác có diện tích bằng nhau. Những học sinh có năng khiếu với biểu hiện ban đầu đã không dừng lại một kiểu chia hình chéo (H1), mà các em sẽ suy nghĩ, tìm cách chia khác nhau như các hình khác, ở đây chỉ cần vẽ được hình, các em sẽ tường minh cách chia phép kiểm tra lúc này là sự bằng nhau về diện tích của các tam giác. 1 2 3 4 1 2 4 3 1 2 3 4 1 2 3 4 2 1 3 4 1 2 3 4 (H1) (H2) (H3) (H4) (H5) (H6) Các ví dụ trên đã thể hiện rõ mức độ khác nhau, vì vậy đòi hỏi bản thân chúng ta với tư cách là những nhà giáo dục phải chú ý theo dõi, phân tích một cách rất tinh tế mới nhận biết đúng, không lẫn lộn với những biểu hiện ngẫu nhiên. Biết phát hiện và phát hiện đúng sẽ có tác động tốt đối với phát triển tiềm năng tiềm tàng của học sinh. Bên cạnh những biểu hiện trên, còn vài biểu hiện khác mà chúng ta còn phải nhìn nhận thông qua giao tiếp như: ăn, nói, tiếp thu kiến thức nhanh, có trí nhớ tốt, thái độ tự giác, tìm tòi học hỏi. Kinh nghiệm cho thấy, để bồi dưỡng được đội ngũ học sinh giỏi toán thì công tác phát hiện là quan trọng hàng đầu. Do đó trong quá trình lên lớp tôi tiếp cận các em để kiểm tra và theo dõi sớm, phát hiện học sinh có năng khiếu học toán ngay từ đầu năm học để có kế hoạch bồi dưỡng, phụ đạo thích hợp. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần thấy rõ nhiệm vụ này cần đặt ra một cách thường xuyên, liên tục trong từng tiết dạy, bài dạy, buổi lên lớp, nói chuyện, ... Tăng cường phối hợp với gia đình, bạn bè của học sinh để kiểm nghiệm các nhận định của mình là cần thiết và đúng đắn. Phát huy tính tích cực chủ động nhận thức các kiến thức của học sinh. Để tiến tới bồi dưỡng học sinh có năng khiếu toán, điều kiện cần thiết nhất là phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ttrong việc thực hiện nhiệm vụ chiếm lĩnh lượng kiến thức và kĩ năng học toán của học sinh. Trong tiến hành tổ chức và điều khiển quá trình dạy học của bản thân, tôi cho rằng: Cần nắm vững chức năng từng loại phương pháp dạy học, biết được mặt ưu, mặt nhược của từng phương pháp dạy học để từ đó có các biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong quá trình dạy học, mỗi chúng ta đều hiểu rằng vai trò chủ động, tích cực của bản thân mỗi học sinh với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức dưới sự tổ chức điều khiển của giáo viên trong quá trình đó, có thể chia ra làm hai nhóm phương pháp chủ yếu là thông báo luyện tập và hoạt động tìm tòi. Nhóm phương pháp thứ nhất vai trò của người thầy cực kì quan trọng, ở đó sự tác động của người thầy với nhận thức khác nhau đẫn tới các sản phẩm nhận thức khác nhau trước cùng một vấn đề. Cùng một người thầy, trước một nhiệm vụ truyền đạt kiến thức mới (cũ) cho học sinh, ai khéo léo kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh để gây dựng cho các em niềm đam mê, ham muốn hiểu biết thì người đó thành công. Nhóm phương pháp thứ hai đặt ra nhiệm vụ cho chúng ta phải chú ý theo dõi tiến trình nhận thức của từng học sinh để có những tác động có tính chất hướng đạo, để cho các em chủ động tìm tòi, nhận thức đạt hiệu quả cao nhất. Một trong những tiêu chuẩn đánh giá trình độ tay nghề của giáo viên là biết kết hợp một cách hữu cơ các phương pháp giảng dạy thích ứng làm phương pháp tối ưu tác động quá ttrình nhận thức của học sinh để đạt hiệu quả cao nhất. Một công cụ cực kì quan trọng có tác dụng tích cực trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đó là công cụ giải toán. Cần khai thác tối đa hiệu quả công cụ giải toán trong việc đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi toán, ở đó cần làm cho học sinh nắm vững các dạng toán điển hình cùng các phương pháp giải tương ứng. Cần cung cấp cho học sinh một cách đầy đủ các phương pháp giải toán ở tiểu học như 13 phương pháp giải toán thường dùng ở tiểu học (tham khảo cuốn các phương pháp giải toán ở tiểu học). Trong thực tế giảng dạy, chúng ta có thể thấy một số thầy, cô khi bồi dưỡng học sinh có năng khiếu toán chưa chú ý đến điều này, làm ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy của trẻ, làm mất đi tính sáng tạo trong các em khi giải toán, các dạng toán mà thầy cô cung cấp cho các em nhiều khi chưa gắn liền với thực tế cuộc sống, do đó các em khó liên hệ với thực tiễn, làm cho các em không nhận thấy hết được tính sinh động của toán học. Khi sử dụng công cụ để giải toán, để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, chúng ta cần giúp cho các em nắm vững các quy tắc suy luận (suy luận có lí, suy luận chứng minh diễn dịch ...) để lựa chọn các phương pháp giải quyết, giúp các em sớm nhận ra các yếu tố ban đầu (giả thiết) và yếu tố cuối cùng (kết luận) một cách rõ ràng. Khai thác hai mối liên hệ đó theo hướng xuôi và ngược, cũng như phát hiện nhanh các điểm nút của bài toán để lựa chọn phương pháp tổng hợp, trên cơ sở các phương pháp giải đã biết để giải quyết nhiệm vụ đặt ra. Các em biết lựa chọn cùng lúc nhiều phương pháp giải, nhiều phương án giải và điều này trở thành nhu cầu của các em phát triển tốt các năng lực tư duy linh hoạt, sáng tạo, luôn có ý thức cải tiến, biết chọn ra con đường tối ưu, con đường ngắn nhất phát triển trí thông minh, óc tò mò, sáng tạo của trẻ. Phát triển tư duy lôgíc cho học sinh. Phát triển tư duy lôgíc là một trong những nhiệm vụ quan ttrọng trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi toán. Cần lưu ý rằng lôgíc suy luận thông thường, tuy bản thân nó không đạt đến chân lí mới, nhưng nó có tác dụng tích cực trong việc chắp cánh cho những ý tưởng sáng tạo vươn lên. Vì thế, không thể phát triển được năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh nếu không dạy cho các em biết tư duy một cách lôgíc, điều quan trọng là phải tập cho các em thói quen đặt vấn đề một cách lôgíc tuân theo sự lôgíc của dữ kiện, cân nhắc đến tính chất lôgíc của câu hỏi khi tìm câu trả lời. Đứng trước một bài toán, khi các em đã phân biệt được dữ kiện (cái đã cho) và kết luận (cái cần tìm), cần phải dạy cho các em đặt câu hỏi tại sao? như thế nào? vì sao lại thế? thế thì sao? ... làm như vậy, chúng ta đã dạy cho học sinh luôn có ý thức tìm tòi, sáng tạo. Có như thế chúng ta mới hoàn thành được nhiệm vụ kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Thường xuyên dạy học sinh cách mổ xẻ vấn đề đã biết dưới dạng khai thác bằng các câu hỏi mang tính lôgíc gần với cái tìm kiếm. Cũng bằng cách đó, chúng ta phải giúp học sinh biết tìm ra mâu thuẫn xuất phát trong từng công việc nhằm giải quyết các mâu thuẫn phát sinh đó. Tư duy trong lứa tuổi tiểu học mang tính chất cụ thể và hình tượng nhiều hơn là sự phát triển tư duy lôgíc, song trong quá trình đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi toán chúng ta không thể không phát triển tốt tư duy này. Ngoài ra chúng ta cần thường xuyên tiến hành hỏi đáp trực tiếp giữa giáo viên và học sinh với nhau, bởi qua việc hỏi đáp này, chúng ta kịp thời phát hiện, uốn nắn các em có những câu trả lời mang tính lôgíc chặt chẽ, có cấu trúc, tính lôgíc trong câu trả lời của học sinh được hướng dẫn và rèn luyện tốt trong quá trình tổ chức các hình thức khác nhau trong giờ học. 4.Một vài biện pháp bồi dưỡng học sinh có năng khiếu toán. Theo tôi, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu toán không chỉ thực hiện bằng cách giới thiệu với các em về các dạng toán hay hướng dẫn các em giải quyết các vấn đề cụ thể mà còn có thể bồi dưỡng theo các biện pháp sau: 4.1.Biện pháp 1: Củng cố vững chắc và hướng dẫn đào sâu các kiến thức đã học thông qua những gợi ý hay những câu hướng dẫn, đi sâu vào nội dung bài học và kiến thức trọng tâm, thông qua việc yêu cầu học sinh tự tìm các ví dụ minh hoạ. Ví dụ: Khi so sánh hai phân số, giáo viên cho học sinh cách làm thông thường như: a. Nếu là so sánh các phân số tối giản thì ta quy đồng mẫu số hai phân số rồi so sánh hai tử số. b. Nếu các phân số so sánh chưa tối giản thì ta rút gọn phân số về phân số tối giản rồi mới quy đồng mẫu số và so sánh hai tử số. Ngoài ra, giáo viên còn hướng dẫn học sinhcó năng kiếu toán làm các cách khác và đưa ra ví dụ minh hoạ: Cách 1: So sánh phân số với 1 và Thì Cách 2: So sánh qua một phân số trung gian và Thì Cách 3: So sánh hai “phần bù” với 1 của mỗi phân số thì 4.2.Biện pháp 2: Ra thêm một số bài tập nâng cao, những bài tập khó hơn trình độ chung, đòi hỏi việc vận dụng sâu hơn các khái niệm đã học hoặc vận dụng những phương pháp giải linh hoạt, sáng tạo hoặc phương pháp tổng hợp. Ví dụ: Sau khi học bài “Tìm số trung bình cộng”, giáo viên cho học sinh làm các bài tập sau: Dạng1: Trung bình cộng Bài toán: Tìm số có ba chữ số, biết trung bình cộng ba chữ số của số đó là 2. Dạng 2: Kém trung bình cộng Bài toán: An có 20 nhãn vở, Bình có 16 nhãn vở, Chi có số nhãn vở kém trung bình cộng của ba bạn là 6 nhãn vở. Hỏi Chi có bao nhiêu nhãn vở? Dạng 3: Hơn trung bình cộng Bài toán: An có 20 hòn bi, Bình có số bi bằng số bi của An. Chi có số bi nhiều hơn trung bình cộng của ba bạn là 6 hòn bi. Hỏi Chi có bao nhiêu hòn bi? Sau khi đọc đề, học sinh tìm hiểu và mau chóng phát hiện ra chỗ nút vấn đề cần giải quyết bằng phương pháp giải linh hoạt, sáng tạo nên các em rất hứng thú khi làm những bài toán này. 4.3.Biện pháp 3: Luôn đặt ra những yêu cầu giải bằng nhiều cách: Phân tích, so sánh, chọn lọc phương pháp tối ưu nhất cho một bài toán: Sở dĩ chúng ta luôn đặt ra yêu cầu phải giải bằng nhiều cách vì việc đi saau vào tìm nhiều cách giải khác nhau cho một bài toán có vai trò lớn trong việc rèn luyện kĩ năng, củng cố kiến thức, rèn luyện trí thông minh, óc sáng tạo cho học sinh. Chúng ta sẽ thấy rất rõ điều đó có tác dụng sau: Những cách giải khác nhau của một bài toán góp phần hình thành và củng cố cho học sinh về tính chất của phép tính số học, về quan hệ giữa các phép tính số học. Trong khi cố gắng tìm ra nhiều cách giải khác nhau sẽ giúp học sinh có dịp so sánh các cách giải đó, chọn ra cách hay hơn và tích luỹ nhiều kinh nghiệm để giải toán. Việc tìm ra nhiều cách giải toán góp phần rèn luyện cho học sinh đức tính tiết kiệm, bởi từ nhiều cách giải ấy học sinh có thể chọn ra con đường ngắn nhất để đi đến đích, không vội bằng lòng với việc tìm được con đường đầu tiên. Quá trình tìm tòi những cách giải khác nhau của bài toán cũng là quá trình rèn luyện trí thông minh, óc sáng tạo và khả năng suy nghĩ linh hoạt của học sinh. 4.3.Biện pháp 4: thường xuyên yêu cầu các em tự lập đề toán và tự giải trên cơ sở là các tình huống cụ thể, sau đó tập cho các em thành thói quen tìm tòi, sáng tạo. Việc học sinh tự lập đề toán thường gặp ở tiểu học, việc đó không những giúp các em phát triển tư duy độc lập mà còn giúp các em phát triển tính linh hoạt, sáng tạo của tư duy, hơn nữa việc lập đề toán còn gây hứng thú cho các em trong việc nắm vững hơn cấu trúc, cách giải của bài toán, tạo điều kiện gắn với cuộc sống, vì các em phải tìm hiểu, chọn số liệu trong cuộc sống để lập đề toán, tập tự mình nêu vấn đề, giải quyết vấn đề như cuộc sống thường đòi hỏi. Việc học sinh có tự lập được đề toán theo các yêu cầu hay không là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá xem học sinh đã thực sự nắm được “dạng toán mới” chưa. Khi yêu cầu học sinh tự lập đề toán, giáo viên có thể định hướng để các em thực hiện theo yêu cầu từ thấp đến cao với những hình thức sau: a, Đưa ra đề toán thiếu số liệu, học sinh tự tìm số liệu điền vào rồi giải. b, Đưa ra đề toán thiếu câu hỏi, học sinh tự đặt câu hỏi rồi giải. c, Cho tự lập đề toán theo tóm tắt rồi giải. d, Tự lập đề toán theo cách giải đã cho sẵn. e, Cho lập đề toán tương tự với bài toán vừa làm. 4.5.Biện pháp 5: Tổ chức cho học sinh tự tìm tòi, tranh luận và thảo luận để tìm cách giải quyết vấn đề gọi tắt là tự phát hiện. Cách tổ chức cho học sinh tự phát hiện vấn đề giúp cho học sinh có điều kiện thuận lợi để: Tự thể hiện tài năng, trí thông minh, óc sáng tạo của mình. Rèn luyện tính tháo vát, năng lực tự xoay sở, óc dám nghĩ, dám làm. Hình thành năng lực phát minh, trình bày, diễn đạt tự tin trong cuộc sống. Kết quả thực hiện Từ việc nắm vững các biểu hiện để phát hiện học sinh có năng khiếu học toán, nắm vững các biện pháp bồi dưỡng, trong quá trình thực hiện, tôi thu được kết quả sau: Tôi phát hiện trong lớp tôi trực tiếp giảng dạy có 9 học sinh thích học toán trên tổng số 22 học sinh. Qua quá trình bồi dưỡng theo các biện pháp trên tôi nhận thấy chất lượng học tập nâng cao hơn, các em học sinh tỏ ra hứng thú, say mê khi học toán, đặc biệt khi được tiếp cận, tìm hiểu các vấn đề toán học, các em học một cách hào hứng, sôi nổi, thích làm các bài toán nâng cao, mở rộng. Kết quả cụ thể: Trong kì thi học sinh giỏi toán có 9 học sinh đạt giải cấp trường và có 1 học sinh đạt giải cấp huyện. Kết luận Phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu học toán có vai trò rất quan trọng, tôi thấy việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu học toán ở tiểu học là tiền đề phát triển cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở các cấp học tiếp theo. Giáo viên cần nắm vững các biểu hiện để phát hiện và biết sử dụng linh hoạt các biện pháp bồi dưỡng, đầu tư về thời gian cũng như chất lượng giảng dạy. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi rút ra trong quá trình thực hiện, không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! Ngày 12 tháng 3 năm 2010 Người viết Trần Thị Bích Hiền Mục lục Phần mở đầu Trang I.Lý do chọn đề tài 1 II.Mục đích nghiên cứu 2 III.Nhiệm vụ nghiên cứu 2 VI.Đối tợng nghiên cứu 3 Nội dung nghiên cứu I.Điều tra thực trạng 3 II.Đề xuất giải pháp 4 1.Phát hiện học sinh có năng khiếu học toán 4 2.Phát huy tính tích cực chủ động nhận thức kiến thức của học sinh 5 3.Phát triển t duy logíc cho học sinh 7 4.Một vài biện pháp bồi dỡng học sinh có năng khiếu học toán 8 Kết quả thực hiện 12
Tài liệu đính kèm: