Đề tài Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp ghép 1 + 2

Đề tài Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp ghép 1 + 2

 Ngành giáo dục - đào tạo được Đảng ta các định là quốc sách hàng đầu. Có vị trí rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Đất nước ta đang trên đường tiến lên công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và nhất là trong giai đoạn công nghệ phát triển hiện nay, đất nước cần có nhu thế hệ trẻ có đủ đức, đủ tài, có sức khoẻ để xậy dựng đất nước, đưa đất nước tiến lên sánh vai cùng với sự phát triển của các cường quốc phát triển. Trước những yêu cầu lớn lao đó đòi hỏi cần phải đầu tư để tạo ra những con người có đủ đức, đủ tài

doc 8 trang Người đăng van.nhut Lượt xem 2645Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp ghép 1 + 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GD&ĐT TUẦN GIÁO
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Trường TH Số I Quài Tở
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
" RÈN KỸ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP GHÉP 1 + 2 "
Người thực hiện : Nguyễn Thị Thúy
Chức vụ : Giáo viên phụ trách lớp ghép 1+2
Đơn vị : Trường tiểu học số I Quài Tở
Danh hiệu ĐKTĐ : Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
1/ Lý do chọn đề tài:
 Ngành giáo dục - đào tạo được Đảng ta các định là quốc sách hàng đầu. Có vị trí rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Đất nước ta đang trên đường tiến lên công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và nhất là trong giai đoạn công nghệ phát triển hiện nay, đất nước cần có nhu thế hệ trẻ có đủ đức, đủ tài, có sức khoẻ để xậy dựng đất nước, đưa đất nước tiến lên sánh vai cùng với sự phát triển của các cường quốc phát triển. Trước những yêu cầu lớn lao đó đòi hỏi cần phải đầu tư để tạo ra những con người có đủ đức, đủ tài. Mà muốn có những con người có đủ đức và tài thì phải được đầu tư từ lúc bắt đầu học chữ. Ngành giáo dục - đào tạo đối tượng chủ yếu là đào tạo con người, mà con người là động lực thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì con người là sản phẩm của xã hội, đồng thời hoạt động của con người sáng tạo ra xã hội. Giáo dục là nhiệm vụ trồng người. đào tạo nên những lớp người xã hội chủ nghĩa.
Như chúng ta đã biết '' Mọi vĩ nhân đều bắt đầu từ những em bé " tất cả mọi người từ già đến trẻ, từ các nhà khoa học đến những người bình thường muốn hiểu biết được khoa học kĩ thuật đến kho tàng kiến thức vô tận của loài người phải bắt đầu từ việc học đọc. Vậy việc đọc giúp cho con người tiếp thu nền văn minh của nhân loại, tiếp thu thế giới bên trong của người khác giúp quá trình nhận thức nẩy nở sự rung động và ước mơ. Đọc để hưởng thụ nền giáo dục hiện đại, biết yêu cái thiện cái đẹp, không đồng tình với cái ác , cái xấu.
 Để thực hiện được những vấn đề mấu chốt là phải có con người vàcon người ở đây phải đủ tài, đủ đức có sức khoẻ để cống hiến cho xã hội. Hướng con người tới cái chân - thiện - mỹ, công - dung - ngôn - hạnh, để đáp ứng được yêu cầu cách mạng hiện nay.
 Năm học 2006 - 2007 toàn ngành giáo dục hưởng ứng cuộc vận động " Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục do bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo Nguyễn Thiện Nhân phát động bước đầu đã thu hái được nhiều thành tích đáng khích lệ và được toàn xã hội hưởng ứng.
Năm học 2007 - 2008 chúng ta lại tiếp tục thực hiện cuộc vận động ấy với bốn nội dung: " Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Nói không với vi pham đạo đức nhà giáo và học sinh ngồi nhầm lớp".
 Ở trường tiểu học việc hình thành năng lực đọc cho học sinh giúp học sinh có điều kiện tiếp cận với các môn học khác, giáo dục lòng ham mê đọc sách, hình thành thói quen làm việc trên văn bản, làm giàu kiến thức ngôn ngữ, kiến thức đời sống xã hội. Phát triển ngôn ngữ tư duy đồng thời giáo dục học sinh tư tưởng tình cảm thẩm mỹ cho các em.
Trước những trọng trách to lớn mà Đảng và nhân dân giao phó. Là giáo viên có tâm huyết với nghề. Tôi thiết nghĩ mọi người cũng sẽ đồng tình với tôi: muốn học sinh đọc thông viết thạo quan trọng nhất là phân môn học vần - tập đọc có vai trò quan trọng trong môn tiếng việt lớp 1+2 cũng như các môn học khác.
 Năm học 2007-2008 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp ghép 1+2. Điều mà tôi trăn trở là các em HS lớp 1 mới bước vào môi trường giáo dục.Các em còn là những tờ giấy trắng, nhiệm vụ của người giáo viên là phải rèn luyện, dạy cho các em biết đọc , biết viết, biết cư xử với bạn bè biét ứng xử trong giao tiếp hàng ngày. Ngôn ngữ cô trò bất đồng, các em con ham chơi, lại rất hiếu động và nhất là các em là con em đân tộc, ít tiếp xúc với môi trường xung quanh, nhút nhát, sợ sệt, rụt rè, hoàn cảnh gia đình khó khăn, sự quan tâm của phụ huynh học sinh tới việc học tập của con em mình còn nhiều han chế. Vậy làm thế nào để học sinh đọc thông viết thạo và thực hiện được mục tiêu giáo dục mà nghành và trường đề ra. Từ những suy nghĩ đó đã thúc đẩy tôi chọn đề tài ''Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp ghép 1+2 ''.
B/ NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
1.Thực trạng của việc rèn kỹ năng đọc của học sinh lớp 1+2 trong những năm qua:
a/ Những thuận lợi:
 - Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối khang trang theo đúng tiêu chuẩn của bộ GD_ĐT, đã chấm dứt tình trạng học 2-3ca.
 - 100% học sinh trong lớp đều yên tâm học tập, nhiệt tình, yêu trường yêu lớp.
 - Tổ chức Đội và Sao nhi hoạt động đồng đều có tác động tích cực đến phong trào học tập và rèn luyện của học sinh.
 - Được sự quan tâm của BGH công tác xã hội hoá được nâng lên một bước, hội cha mẹ phụ huynh học sinh quan tâm hơn đến việc học tập của các em.
b/Những khó khăn:
 - Học sinh trong lớp 100% là người dân tộc, ngôn ngữ phát triển chậm, nhận thức còn hạn chế, phát âm Tiếng việt còn gặp rất nhiều khó khăn.
 -Chưa được sự quan tâm của phụ huynh tới việc học ở nhà của các em.
 -Là lớp học 2 trình độ nên việc dạy và học còn gặp nhiều khó khăn.
 -Lớp học đóng trên địa bàn khu bản lẻ dân cư kinh tế chậm phát triển, sức đóng góp cho phong trào giáo dục còn yếu về mọi mặt.
 Với những khó khăn trên làm cho phong trào thi đua, học tập và rèn luyện của học sinh chưa thực sự hiệu quả.
c/Thực trạng của việc Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1+2 trong những năm qua:
*Đối với việc dạy học của giáo viên:
 Trong những năm qua nhà trường đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên: Thường xuyên tổ chức tốt các hoạt động chuyên môn như dự giờ thăm lớp, kiểm tra hồ sơ soạn giảng,tổ chức hội giảng thi tay nghề từ cấp tổ, cấp trường đến cấp huyện.
 Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ mỗi tuần 1 buổi. Bản thân tôi tham gia thường xuyên nhiệt tình, có hiệu quả. Riêng phân môn Học vần- Tập đọc được nhà trường tổ chức thành chuyên đề, tập thể giáo viên xây dựng, thiết kế bài giảng cụ thể,phong phú giúp tôi và các đồng nghiệp thực hiện tốt việc giảng dạy trên lớp phân môn này. 
2/ Mục đích đối tượng phạm vi nghiên cứu:
*Toàn bộ học sinh lớp ghép 1+2 trường tiểu học số 1 Quài Tở trực tiếp học tập và tu dưỡng trong năm học 2007-2008.
* Vận dụng sự hiểu biết về tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, năng lực sư phạm của giáo viên để tổ chức dạy và học phân môn tập đọc cho học sinh lớp ghép 1+2.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
 -Toàn bộ học sinh lớp ghép 1+2 trường tiểu học số 1 Quài Tở là những người trực tiếp học tập.
 - Các yếu tố có tác động đến việc học tập của học sinh nói chung và phân môn tập đọc nói riêng: Gia đình, bản làng, xã hội có liên quan đến giáo viên và học sinh của nhà trường.
3/ Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu:
* Nhiệm vụ: 
 - Nghiên cứu một số cơ sở thực tiễn về dạy phân môn Học vần- Tập đọc ở lớp 1+2 trong nhà trường tiểu học những năm qua.
 - Điều tra thực trạng, khảo sát chất lượng học sinh của học sinh lớp ghép1+2.
 - Đề xuất với BGH những biện pháp khả thi để thực hiện đề tài này.
 *Phương pháp:
 Trong quá trình nghiên cứu tôi áp dụng những phương pháp sau:
 + Phương pháp trực quan, đàm thoại, quan sát.
 + Phương pháp luyện tập thực hành.
 + Phương pháp điều tra thực tế.
 + Phương pháp khảo sát thống kê.
 +Phương pháp kiểm tra đánh giá.
 Phương pháp nghiên cứu lý luận ( tài liệu) để tìm hiểu những cơ sở khoa học bổ sung cho đề tài.
C/ QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG ĐỀ TÀI TRONG NĂM HỌC 2007 - 2008
1-Khảo sát đê tài: 
 Trước khi áp dụng đề tài này,ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát về chất lượng học tập phân môn Tập đọc và chất lượng học tập nói chung của học sinh.
 Đối với học sinh: Tổng số: 13em :Trình độ 1: 5em
 Trình độ 2: 8 em
 Trong đó 5 em ở nhóm trình độ 1 thì chỉ có 2 em được học qua lớp mầm non còn 3 em chưa được học qua lớp mầm non vì các em có hoàn cảnh khó khăn.
Ở trình độ 2: Chất lượng phân môn tập đọc đầu năm qua khảo sát.
 Giỏi : 0
 Khá : 2
 TB : 4
 Yếu: 2
2. Những thiếu sót bộc lộ sau khảo sát:
 - Các em phát âm sai, còn bỏ dấu do ảnh hưởng của tiếng địa phương.
 - Nhận thức Tiếng Việt còn chậm, khả năng phát triển ngôn ngữ con han chế.
3. Các biên pháp thực hiên đề tài:
a. Đối với học sinh:
 - Xây dựng nề nếp lớp học ngay từ đầu năm.
 - Có thói quen chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
 - Xây dựng nhóm học tập trong tổ, cụm bàn, xây dựng đôi bạn cùng tiến.
 - Học sinh tự đánh giá kết quả của mình và đánh giá cho bạn.
 - Tiếp tực tham gia các hoạt động của nhà trường.
b. Đối với giáo viên:
 - Để tổ chức việc dạy - học đọc cho học sinh đạt kết quả người giáo viên cần nắm được đặc điểm tâm lý học sinh, nắm được bản chất kỹ năng đọc. Đọc là một dạng hoạt đọng của ngôn ngữ. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy học đọc là quá trình vận động bằng mắt sử dụng bộ mã chữ âm để phát ra trung thành đến các dấu thanh - vần - tiếng - từ - cụm từ - câu. Sự vận động của các giác quan nghe- nói, đọc - viết. Từ đặc điểm và quá trình nghiên cứu sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 1 + 2. Tôi thấy kiến thức môn học vần - tập đọc được xây dưng trên hệ thống các bài học với một cấu trúc chặt chẽ vừa đảm bảo tính đồng tâm, vừa đảm tính phát triển ở cả hai phần học vần - tập đọc.
 - Việc rèn đọc cho học sinh phần lớn đề thông qua các bài học vần - tập đoc ở trên lớp. Muốn học sinh đọc tốt được giáo viên phải chuẩn bị chu đáo, tìm hiểu rõ nội dung bài, đồ dùng, tranh ảnh cần sử dụng vào lúc nào hợp lý nhất, kiến thức cần đạt trong bài học, sau bài các em cần nắm được những âm vần gì, tiếng từ nào. Phát triển đồng đều bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết, sau mỗi bài học đồng thời sử dụng vận dụng phương pháp dạy học mới vào mỗi bài, mỗi tiết học.
 - Từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh: Học mà chơi, chơi mà học cần tạo sự thoải mái trong tiết học bằng cách tổ chức trò chơi cho học sinh giữa mỗi tiết học, khích lệ sự thi đua của các em, luôn biểu dương động viên bằng những lời khen ngợi của cô giáo, tuyên dương của các bạn tạo thêm sự tự tin để các em làm đúng, chính xác hơn.
 - Nắm vững tình hình thực tế của lớp từ đó đề ra kế hoạch cụ thể trong quá trình giảng dạy.
 - Tăng cường công tác dạy Tiếng Việt cho học sinh.
 - Nắm chắc nội dung chương trình 
 - Nắm chắc phương pháp giảng dạy môn học vần.
 - Luôn luôn tự học, tự tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp để có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy.
 - Biết phân phối mềm dẻo trong việc vận dụng phương pháp để phù hợp với đối tượng học sinh ở địa phương mình, cần tập chung vào các yêu cầu thiết yếu nhất.
Ví dụ: Ở lớp 1 Đối với một số từ ngữ mang nhiều âm, vần trong bài học quá xa lạ với học sinh giáo viên cần diễn giải bằng đồ dùng trực quan hoặc tạm thời thay bằng các từ ngữ khác có nghĩa hoặc chứa âm, vần tương đương để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ.
 Tăng cường sử dụng đồ dùng trong từng tiết học và có kế hoạch dạy với từng đối tượng học sinh.
 - Ở lớp 2: Đối với các bài tập đọc khi đọc mẫu giáo viên phải đọc đúng, diễn cảm và hướng dẫn học sinh đọc đúng, phát âm chuẩn, đọc lưu loát diễn cảm. Trên cơ sở dạy cho học sinh đọc đúng và còn hiểu được các văn bản và phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Giúp học sinh bước đầu mở rộng tầm nhìn xa hơn ra thế giới xung quanh, bước đầu biết rung cảm trước cái đẹp, trước nhưng niềm vui, nỗi buồn, yêu, ghét của con người Việt Nam hiện đại. Thông qua các bài tập đọc giáo viên cần giúp học sinh không những đọc được bài lưu loát, trôi chảy con phải giúp học sinh biết phân biệt cái đẹp , cái xấu, cái thiện, cái ác, cái đúng, cái sai, biết yêu trường yêu lớp, yêu thầy cô bạn bè, yêu quê hương đất nước, có lòng nhân ái vị tha có ý thức về bổn phận của bản thân với ông bà, bố mẹ, người thân, biết tôn trọng và làm theo đúng nội quy, quy định của trường - lớp. Sống hồn nhiên, tự tin trung thực.
 Thông qua các bài tập đọc người thầy, người cô cần giúp học sinh hiểu cách ứng xử trong mỗi tình huống trong bài và từ cách ứng xử đó học sinh học tập và biết vận dụng trong giao tiếp hàng ngày. Từ các câu văn ngắn, đọn văn ngắn các thành ngữ, tục ngữ, ca dao học sinh được tiếp cận với những câu, đoạn nói về thiên nhiên đất nước, gia đình, trường học. Học sinh đọc nhiều hơn, chất lượng đọc nâng cao hơn theo thứ tự các bài tập đọc.
 Qua các bài tập đọc phát triển đồng thời các kỹ năng nghe - nói - đọc ở tấp cảc các bài tập đọc: Các em được nghe cô đọc, tự đọc ( dưới nhiều hình thức khác nhau) và được luyện nói theo chủ đề.
 Ở tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 1 + 2 việc nhớ - hiểu nội dung bài kết hợp chặt chẽ với việc luyện đọc nhiều lần văn bản nên nhiệm vụ luyện đọc - đọc rõ ràng lưu loát được coi là nhiệm vụ quan trọng nhất trong tiết tập đọc.
 Qua khảo sát giữa kỳ I cả hai nhóm trình độ 1 + 2 kết quả như sau:
Tổng số HS
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
13
1
7,8%
2
15,4%
9
69,0%
1
7,8%
 Chua thoả mãn với kết quả trên , tôi lại nghiên cứu và tim ra những biện phát tốt nhất để nâng cao chất lượng đọc của học sinh, kiên trì, tận tình, hướng dẫn học sinh từng con chữ từng câu văn và kết quả kỳ I cho thấy:
Tổng số HS
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
13
2
15,4%
4
30,7%
6
46,1%
1
7,8%
 Sang học kỳ II ngoài sự kiên trì tận tình rèn luyện cho học sinh tôi còn tăng cường về các hình thức dạy học, cho học sinh thực hành nhiều, tăng cường luyện đọc theo nhóm, động viên khuyến khích, khen chê kịp thời.
 Thật bất ngờ khi tôi khảo sát chất lượng của học sinh giữa kỳ II kết quả đạt như sau:
Tổng số HS
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
13
3
23,1%
4
30,7%
7
46,2%
0
0%
4. Kết quả sau một năm áp dụng đề tài:
 Sau một năm nghiên cứu đề tài rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp ghép 1 + 2 so sánh với chất lượng đầu năm tôi thấy: Chất lượng đọc của học sinh tăng cao rõ rệt: Cụ thể như sau:
Tổng số HS
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
13
3
23,0%
5
38,4%
6
38,6%
0
0%
D/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
 - Phải bám sát chỉ thị nhiệm vụ năm học, xây dựng chương trình, kế hoạch giảng dạy phân môn Tiếng Việt phù hợp với thực tế của nhà trường và của lớp ghép 1 + 2.
 - Tranh thủ sự lãnh đạo của BGH và phụ trách chuyên môn nhà trường sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giáo viên trong tổ chuyên môn.
 - Tổ chức sơ, tổng kết rút kinh nghiệm, khen chê kịp thời, đúng người đúng việc mới tạo nên phong trào học tập rộng khắp sôi nổi của học sinh trong lớp.
Đ/ NHỮNG ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ:
 - Đối với ban giám hiệu nhà trường: Cần quan tâm hơn nữa về cơ sở vật chất để đảm bảo và phù hợp cho việc dạy và học.
 - Đối với phụ huynh học sinh: Cần quan tâm tới việc học tập ở nhà của các em, chuẩn bị chu đáo về đồ dùng học tập, tạo mọi điều kiện để các em đến trường, đến lớp đầy đủ.
 - Đối với chính quyền địa phương: Cần quan tâm sát sao hơn nữa tới công tác giáo dục của địa phương, đặc biệt là khu vực bản lẻ, phối kết hợp với nhà trường, gia đình để làm tốt việc duy trì sĩ số và cơ sở vật chất để đảm bảo cho công tác dạy và học.
 - Trong năm học 2007 - 2008 tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này vào tổ chức giảng dạy phân môn học vần - tập đọc(đặc biệt là kỹ năng đọc của học sinh). Kính mong các cấp quản lý giáo dục xem xét giúp đỡ tôi áp dụng đề tài này trong các năm học tiếp theo đạt được kết quả cao hơn.
 Xin chân thành cảm ơn!
 XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG NGƯỜI VIẾT
 Nguyễn Thị Thuý

Tài liệu đính kèm:

  • docde tai doc.doc