Giải nghĩa từ trong chương trình sách giáo khoa tiếng Việt tiểu học

Giải nghĩa từ trong chương trình sách giáo khoa tiếng Việt tiểu học

GIẢI NGHĨA TỪ TRONG CHƯƠNG TRÌNH SÁCH GIÁO KHOA

TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC

1. Giải nghĩa từ - từ cái nhìn toàn cảnh

Dạy nghĩa từ (giải nghĩa từ) là một khâu thường gặp trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học nhưng vai trò của nó lại hết sức quan trọng, không chỉ đối với các phân môn của môn học này (Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Chính tả,.) mà còn cho cả các môn học khác như Tự nhiên - Xã hội, Toán. nói chung. Nhờ có tri thức mới về đối tượng, bắt đầu từ tên gọi, học sinh mới có thể nắm được các tri thức khác. Chẳng hạn, trong một tiết học về môi trường biển, người giáo viên không thể không sử dụng thao tác giải nghĩa từ trước những khái niệm, thuật ngữ, đối tượng mới. như “hải cẩu”, “băng tan” vv.

1.2 . Giải nghĩa từ - nhìn từ thực tiễn dạy học Tiếng Việt tiểu học

Giải nghĩa từ trong chương trình Tiếng Việt ở cấp tiểu học hiện đã thể hiện được vai trò của mình. Tuy thế, thực tiễn dạy học tiếng Việt nói chung và giải nghĩa từ nói riêng còn đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết, nhất là ở tính hiệu quả tối đa.

Trở lại với vấn đề giải nghĩa từ, với cái nhìn từ thực tiễn, chúng ta sẽ cùng xem xét một lần nữa vai trò của nó đối với dạy học các phân môn, với học sinh tiểu học cũng như chất lượng môn Văn - Tiếng Việt nói chung trong nhà trường. Như trên đã chỉ ra, lượng thời gian thực học giải nghĩa từ là rất hạn chế. Trong khi đó, giải nghĩa từ giữ vai trò mở ra cánh cửa tri thức cho học sinh, giúp cho trẻ biết đó là “cái gì” trước khi tìm hiểu chúng ra sao, cấu trúc, quy luật thế nào. Thực tế cho thấy, không chỉ trong dạy học các phân môn của Tiếng Việt mà trong bất cứ tiết học, môn học nào ở tiểu học, khi xuất hiện những khái niệm, vấn đề mới, người giáo viên nhất thiết phải sử dụng thao tác giải nghĩa từ. Tuy nhiên, xét trong tương quan chung, đây là nhiệm vụ, kĩ năng đặc trưng, bắt buộc của dạy học Tiếng Việt, nhất là đối với các phân môn như Tập đọc, Luyện từ và câu,.

 

doc 5 trang Người đăng hang30 Lượt xem 1405Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giải nghĩa từ trong chương trình sách giáo khoa tiếng Việt tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIẢI NGHĨA TỪ TRONG CHƯƠNG TRÌNH SÁCH GIÁO KHOA 
TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC 	 	
Giải nghĩa từ - từ cái nhìn toàn cảnh
Dạy nghĩa từ (giải nghĩa từ) là một khâu thường gặp trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học nhưng vai trò của nó lại hết sức quan trọng, không chỉ đối với các phân môn của môn học này (Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Chính tả,...) mà còn cho cả các môn học khác như Tự nhiên - Xã hội, Toán... nói chung. Nhờ có tri thức mới về đối tượng, bắt đầu từ tên gọi, học sinh mới có thể nắm được các tri thức khác. Chẳng hạn, trong một tiết học về môi trường biển, người giáo viên không thể không sử dụng thao tác giải nghĩa từ trước những khái niệm, thuật ngữ, đối tượng mới... như “hải cẩu”, “băng tan” vv...
. Giải nghĩa từ - nhìn từ thực tiễn dạy học Tiếng Việt tiểu học
Giải nghĩa từ trong chương trình Tiếng Việt ở cấp tiểu học hiện đã thể hiện được vai trò của mình. Tuy thế, thực tiễn dạy học tiếng Việt nói chung và giải nghĩa từ nói riêng còn đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết, nhất là ở tính hiệu quả tối đa.
Trở lại với vấn đề giải nghĩa từ, với cái nhìn từ thực tiễn, chúng ta sẽ cùng xem xét một lần nữa vai trò của nó đối với dạy học các phân môn, với học sinh tiểu học cũng như chất lượng môn Văn - Tiếng Việt nói chung trong nhà trường. Như trên đã chỉ ra, lượng thời gian thực học giải nghĩa từ là rất hạn chế. Trong khi đó, giải nghĩa từ giữ vai trò mở ra cánh cửa tri thức cho học sinh, giúp cho trẻ biết đó là “cái gì” trước khi tìm hiểu chúng ra sao, cấu trúc, quy luật thế nào. Thực tế cho thấy, không chỉ trong dạy học các phân môn của Tiếng Việt mà trong bất cứ tiết học, môn học nào ở tiểu học, khi xuất hiện những khái niệm, vấn đề mới, người giáo viên nhất thiết phải sử dụng thao tác giải nghĩa từ. Tuy nhiên, xét trong tương quan chung, đây là nhiệm vụ, kĩ năng đặc trưng, bắt buộc của dạy học Tiếng Việt, nhất là đối với các phân môn như Tập đọc, Luyện từ và câu,...
	Giải nghĩa từ ngữ dựa trên văn cảnh (là nội dung của văn bản thơ, văn xuôi) cũng là một điểm mạnh của chương trình. Những từ ngữ, thành ngữ như rung động , vương vương, nuôi sao cho xuể (Tiếng Việt 2, tập 1, tr.51, 117, 125), hiền hòa, đá một cú trời giáng, mặt cắt không còn giọt máu, chú cần vụ (Tiếng Việt 2, tập 2; tr.19, 42, 75, 108), 80 năm giời nô lệ (Tiếng Việt 5, tập 1; tr.5)... trẻ khó mà nắm bắt được nghĩa của chúng nếu như không có điểm tựa là ngữ liệu của bài học. Việc giới thuyết ngắn gọn về tên tác phẩm trong Tiếng Việt 5 (Thư gửi các học sinh - tập 1, Đất nước - tập 2) cũng là một nỗ lực cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về “văn cảnh” của chúng trên tinh thần chú trọng nhiều hơn đến đặc điểm về sự phát triển trong tư duy, nhận thức, tâm lí của lớp cuối cấp tiểu học.
	Nhìn chung, giải nghĩa từ trong chương trình Tiếng Việt tiểu học đã đáp ứng được nhu cầu giảng dạy, nâng cao vốn từ ngữ tiếng Việt cho học sinh. Tính khoa học của nó là vấn đề không cần nhiều bàn cãi; bởi đa phần người biên soạn đã sử dụng hình thức giải nghĩa đơn giản, gọn rõ, phù hợp với trẻ thơ, với kích cỡ trang sách,... Các từ cần giải nghĩa cũng có tính đồng tâm và phát triển, được chọn lọc kĩ càng để sao cho với một số lượng vừa phải (từ 1 – 8 từ ngữ) có thể giúp học sinh nắm được nội dung, tri thức về tiếng Việt trong các bài Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu,... theo phương châm vừa tận dụng những kinh nghiệm sử dụng tiếng Việt sẵn có của người học vừa không lặp lại những từ ngữ mà các em đã học, đã biết trước đó. 
2.3. Một vài hạn chế
Tuy các phương thức giải nghĩa từ nêu trên đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của quá trình giảng dạy, nhưng khi so sánh với các phương thức giải nghĩa từ mà ngôn ngữ học ứng dụng hiện đại đã chỉ ra và căn cứ vào tỉ lệ các phương thức sử dụng để giải nghĩa từ từ thực tiễn, có thể nói, giải nghĩa từ trong chương trình SGK Tiếng Việt tiểu học vẫn còn những hạn chế nhất định. Đó là:
	- Tiếng Việt lớp 1, tập 2 đã cung cấp từ mới (kí hiệu T), nhưng SGK chưa giải nghĩa: lũy tre, rì rào, gọng vó, râm bụt, nhởn nhơ, quây quanh, sừng sững, khẳng khiu, chi chít, giả vờ, tức tốc, hốt hoảng, mừng quýnh, nhễ nhại, lúi húi, huênh hoang, v.v... Mục tiêu dạy học ở đây là chỉ chú trọng giúp học sinh luyện đọc, nắm vỏ ngữ âm mà chưa hướng đến tiếp cận ngữ nghĩa và cách dùng chúng trong hoạt động giao tiếp. Theo chúng tôi, điều này là chưa thỏa đáng, bởi nhiều từ trong đó không phải là quá khó nắm bắt ý nghĩa để từ đó đưa vào sử dụng trong thực tế của lứa tuổi này.
- Các phương thức chiết tự và sử dụng ví dụ, ngữ cảnh ít được các soạn giả lưu tâm. Về nguyên tắc, những phương thức này thường được áp dụng để giải nghĩa từ của ngôn ngữ thứ hai (chẳng hạn khi học ngoại ngữ), nhưng chúng cũng có thể sử dụng tốt trong việc giải nghĩa từ tiếng Việt, nhất là bậc học tiểu học. Theo quan sát của chúng tôi, tất cả các bài học được khảo sát đều không sử dụng phương thức này. Vì thế, các ngữ cảnh phụ, ngữ cảnh đối chiếu chưa được coi trọng. Hệ quả là, có những trường hợp tác giả giải nghĩa từ hết sức “chống cháy” như từ “sấu” ở trang 90, SGK Tiếng Việt 5, tập 1. Từ “sấu” được giải nghĩa là “cá sấu” trong khi ngữ cảnh của đoạn văn đã có(6). Thiết tưởng, trong trường hợp này hoặc không giải nghĩa, hoặc phải sử dụng tới ngữ cảnh khác, mới tạo ra được giá trị của việc giải nghĩa từ.
	- Một số từ, do quá chú trọng tiêu chí ngắn gọn, giản đơn hóa mà trở thành mơ hồ, chung chung, thật khó nhận diện. Chẳng hạn: “Cà cuống, niềng niễng: những con vật nhỏ, có cánh, sống dưới nước”; “Xập xành, muỗm: những con vật nhỏ có cánh, sống trên cạn” (Tiếng Việt 2, tập 1, tr.107). Điều này dễ khiến trẻ hiểu nhầm: động vật nào mang những đặc điểm bên ngoài, sống trong những môi trường như trên thì đều là... cà cuống, niềng niễng, xập xành, bọ muỗm,... cả! Đối sánh với cách giải nghĩa các từ cùng loại với chúng ở SGK Tiếng Việt 2, tập 2 (như sơn ca, đà điểu, cuốc – tr.24, 27, 38,...) sẽ dễ dàng nhận ra khiếm khuyết này. Mức độ khó khăn cho người học càng gia tăng nếu cách giải nghĩa như thế áp dụng cho các từ loại động từ, tính từ. (Trường hợp từ “đơm” (Tiếng Việt 2, tập 2; tr.5) là một ví dụ). 
	- Không ít từ giải nghĩa không sát với giá trị thẩm mĩ của chúng trong bài học, đặc biệt là với những từ nhiều nghĩa, gần nghĩa. Ví như: “ghé” trong hai dòng thơ “Nắng ghé vào cửa lớp – Xem chúng em học bài” (Tiếng Việt 2, tập 1, tr.60) được xem như là “ghé mắt’ và giải thích: nhìn, ngó. Thực ra, nếu đặt trong văn cảnh của bài thơ (Cô giáo lớp em), sẽ dễ thấy nghĩa của từ này phải là: Tạm dừng lại (ở bên ngoài cửa lớp) để xem học sinh học bài. Bởi nắng, như đã biết, là một “người bạn” bận bịu, đầy hiếu động: Nắng lên cao theo bố - Xây thẳng mạch tường vôi - Lại trải vàng sân phơi – Hong thóc khô cho mẹ - Nắng chạy nhanh lắm nhé - Chẳng ai đuổi kịp đâu... (Nắng - Mai Văn Hai) chứ đâu phải lúc nào cũng sẵng sàng túc trực bên ngoài để “nghiêng đầu đưa mắt nhìn” học sinh qua khe cửa lớp học. Vậy mà, chính vẻ dịu dàng, tận tâm của cô giáo, sự thơ ngây, đáng yêu, tính chăm chỉ, hiếu học của những người bạn nhỏ,... - tất cả tạo thành sức hút không thể cưỡng nổi của lớp học - khiến cho nắng cũng tạm dừng chân mà thích thú ngắm nhìn.
	- Một số từ ngữ lại giải nghĩa thừa. Chẳng hạn cụm từ “thử xem có nghiệm”: thử xem có đúng không (Tiếng Việt 2, tập 1, tr.84). “Thử xem” là ... thử xem, vậy giải nghĩa để làm gì. Trong trường hợp này, chỉ cần làm sáng rõ nghĩa của cụm từ “có nghiệm” là đủ. Cách giải nghĩa từ “thượng khẩn” trong bài tập đọc Lượm (Tiếng Việt 2, tập 2; tr.131) cũng nằm trong trường hợp này. 
	- Hạn chế thường gặp nhất – và cũng đáng tiêc nhất - là giải thích sai hoặc không sát nghĩa của từ; kéo theo nội dung, giá trị thẩm mĩ của bài học bị giảm sút không ít. Chẳng hạn cách giải nghĩa các từ cựa, hồng mao, mái chèo (Tiếng Việt 2, tập 2; tr.61, 69):
	+ Cựa: móng nhọn mọc ở phía sau chân gà trống.
	+ Hồng mao: bờm (ngựa).
	+ Mái chèo: vật dùng để đẩy nước cho thuyền đi.
	Chúng ta dễ dàng nhận ra những bất ổn ở đây. Móng phải mọc ở đầu ngón chân (của gà) chứ; còn cựa sao có thể là “móng nhọn” được. Mái chèo nếu giải nghĩa như trên dễ khiến học sinh (nhất là các em ở vùng sông nước) không đồng tình; bởi lẽ cái chân vịt cũng là một bộ phận máy có cánh quạt quay dưới nước để tạo nên sức đẩy giúp cho thuyền đi tới. Còn “hồng mao” trong văn cảnh này được hiểu là lông (của bờm ngựa) có màu đỏ; đấy mới là ngựa quý, ngựa hiếm; có như thế mới xứng là lễ vật của các thần nhân xin cưới Mị Nương – viên ngọc báu của đất Phong Châu. Nếu chỉ là “bờm ngựa” chung chung, trung tính như thế thì dẫu “chín hồng mao” chăng nữa, chân giá trị của viên ngọc ấy cũng... giảm giá đi nhiều. Có cảm giác đội ngũ biên soạn hướng trọng tâm vào đối tượng người học và người dạy ở thành thị nhiều hơn; vì lẽ, những sự vật như mái chèo, bánh lái, ve, cựa gà,... chưa thể gọi là thân thuộc ngay cả với bản thân giáo viên nói gì đến học sinh; thành thử (trong nhận thức của người làm sách và thực tiễn dạy học ở trường tiểu học) giải nghĩa từ với cả thầy và trò chỉ là một khâu chiếu lệ, làm cho có chứ chưa thực sự chú trọng đến hoạt động sử dụng chúng trong thực tế cuộc sống. Xét ở phương diện này, có thể thấy, tính chất qua loa, đại khái, thiếu liên hệ mật thiết với thực tế khách quan,... dường như là nét chung của cả hệ thống, từ khâu biên soạn, thiết kế nội dung chương trình SGK đến hoạt động thi công, truyền tải, lĩnh hội kiến thức về ngôn ngữ tiếng Việt của cả thầy và trò. 
	- Đôi lúc, việc dùng các từ Hán Việt xa lạ để giải nghĩa từ cũng khiến cho khái niệm thêm rườm rà, tù mù, đánh đố người học. Cách giải nghĩa từ “bưu điện” (Tiếng Việt 2, tập 2; tr.8) là một ví dụ: “Bưu điện là cơ quan phụ trách việc chuyển thư, điện báo, điện thoại”. Sao không phải là “nơi”, “làm” cho gần gũi, dễ hiểu với trẻ thơ mà phải sang hóa bằng từ “cơ quan”, “phụ trách” trịnh trọng đến thế!
3. Một số đề xuất
	Giải nghĩa từ là “mắt xích” quan trọng của quá trình dạy học Tiếng Việt ở tiểu học. Trong khi chờ đợi sự chỉnh sửa, hoàn thiện về nội dung chương trình của bộ sách (chắc chắn rồi - bởi đó là dấu hiệu của sự phát triển đối với một hiện tượng xã hội chưa bao giờ mang trong mình nó tính chất nhất thành bất biến là giáo dục), để khai thác tối đa ưu thế của giải nghĩa từ trong việc cung cấp kiến thức, hình thành năng lực sử dụng tiếng Việt cho người học, trả giải nghĩa từ về đúng với đặc trưng và vị thế của nó, ngoài việc chú trọng phát huy những mặt tích cực cũng như điều chỉnh những bất cập của cơ chế này trong nội dung chương trình SGK hiện hành, giáo viên cần lưu ý thêm một số điểm sau đây: 
1. Giải nghĩa từ phải cơ bản phải đáp ứng được các tiêu chí: đủ, đúng, ngắn gọn. Các tiêu chí này phù hợp với năng lực tâm lí – ngôn ngữ và khả năng nhận thức của học sinh tiểu học.
2. Ngoài nội dung giải nghĩa từ được trình bày trong SGK, người dạy cần cụ thể hóa hơn nữa nghĩa của từ ngữ bằng:
	- Ví dụ minh họa gần gũi, quen thuộc với học sinh;
	- Hệ thống tranh ảnh, vật thật (sưu tầm hoặc tự tìm kiếm, thiết kế).
3. Không rập khuôn, máy móc, làm lấy lệ theo cách giải nghĩa từ sẵn có trong SGK, sách giáo viên, nhất là với phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu; cần mạnh dạn, linh hoạt điều chỉnh cho phù hợp. Quan niệm có tính chất trung dung nhưng xem ra lại khá thích ứng với dạy học giải nghĩa từ (và dạy học Tiếng Việt nói chung) là: SGK chỉ là pháp lệnh... tương đối. (Sự kế thừa, cách tân và hoàn thiện dần từ chương trình Cải cách giáo dục đến chương trình mới trên đại thể và chi tiết được không ít ý kiến bàn thảo lâu nay là một minh chứng cho điều này). Có mạnh dạn thay đổi quan điểm như thế, người dạy mới có thể chủ động, sáng tạo trong việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học giải nghĩa từ hiện hành. Tính khả thi của tiến trình dạy học này, khách quan mà nói, không chỉ được quyết định bởi bản thân đội ngũ giáo viên mà còn phụ thuộc rất nhiều ở sự đồng thuận, khuyến khích của các cá nhân, đơn vị trực tiếp quản lí giáo dục – đào tạo như Bộ, Sở, Phòng Giáo dục – Đào tạo, Ban giám hiệu trường tiểu học, tổ/khối trưởng chuyên môn,...
4. Cần đặt từ trong văn cảnh để giải thích. Văn cảnh ở đây không chỉ là văn cảnh hẹp - tức nội dung của bài học; mà còn là văn cảnh rộng - tức thực tế sử dụng từ ngữ đa dạng, sinh động của các em.
5. Tránh dùng các từ Hán Việt xa lạ, các thuật ngữ khoa học rắc rối, khó hiểu với học sinh để giải nghĩa từ.
6. Chú trọng tính tinh giản, sáng rõ của “cái được biểu đạt” nhưng không vì thế mà giản đơn hóa khiến cho đối tượng cần giải nghĩa rơi vào tình trạng giàu tính khái quát mà thiếu tính cụ thể - một yêu cầu tối cần thiết đối với quá trình dạy học ở tiểu học. 
7. Nên bổ sung, tăng cường giải nghĩa từ ở các phân môn Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn; nhất là ở lớp 2. Người học khó có thể hình thành tri thức ngôn ngữ, năng lực thực hành tiếng Việt nếu chưa hình dung các sự vật, hoạt động, trạng thái, tính chất,... đi kèm với các từ như: thông minh, òa (lên khóc), keo, thở phào, quấn quýt, nông gia (Tiếng Việt 2, tập 1; tr.24, 2, 84, 103); la đà, cù, khẳng khiu, sân chim, chim chích bông, liên liến, nườm nượp, nục nịch, ủ lửa, chung đúc, ấm ức (Tiếng Việt 2, tập 2; tr.16, 21, 29, 30, 48, 97, 109, 127), sông Thu Bồn, lơ lửng (Tiếng Việt 3, tập 1; tr.87) v.v...

Tài liệu đính kèm:

  • docgiai nghia tu TV.doc