Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu

Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu

Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay.

Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập tích cực cho người học. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm tòi, khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của họ. Trước vấn đề đó, người giáo viên không ngừng tìm tòi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ động, sáng tạo.

Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác tối đa bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ so với những học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.

 

doc 11 trang Người đăng huong21 Lượt xem 852Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập tích cực cho người học. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm tòi, khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của họ. Trước vấn đề đó, người giáo viên không ngừng tìm tòi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ động, sáng tạo.
Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác tối đa bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ so với những học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.
Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan tâm đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương. Những năm qua, được sự quan tâm sâu sát của ngành, chính quyền địa phương, của ban giám hiệu nhà trường và ban đại diện cha mẹ học sinh và đặc biệt là sự nỗ lực không ngừng của tập thể thầy cô trường Tiểu học Thiện Hưng A thì nhà trường luôn là một trong những trường đứng đầu trong toàn huyện về chất lượng giáo dục, công tác PCGDTH-XMC và PCTHCS ở địa phương đã đạt chuẩn và duy trì tốt.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ  học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình.
Từ những suy nghĩ trên, bản thân đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu” để tiếp tục áp dụng vào thực tế lớp 5A3 nói riêng và học sinh khối 5 trường Tiểu học Thiện Hưng A nói chung.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
2.1 Mục đích
Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, quan tâm của gia đình, thầy cô và có một môi trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích, say mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu, giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu hay nói khác hơn, để nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là của toàn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để những ai đang làm công việc “trồng người” luôn cố gắng tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học sinh yếu chưa đạt hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp. Đây cũng chính là mục đích của đề tài này.
2.2 Nhiệm vụ
Khảo sát tình hình học yếu của học sinh khối 5 hiện nay.
Tiếp cận với học sinh, các thầy cô trong khối, các bậc phụ huynh học sinh để tìm ra những biện pháp có hiệu quả nhất trong việc phụ đạo học sinh yếu.
Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn (nếu có) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng
Giáo viên và học sinh khối 5 trường Tiểu học Thiện Hưng A về việc giúp đỡ các em là học sinh yếu.
3.2 Thời gian
Từ ngày 10/9/2010  đến 30/9/2010: Lập đề cương.
Từ ngày 1/10/2010 đến 30/11/2010: Nghiên cứu và áp dụng thử trong khối.
Từ ngày 1/12/2010 đến 15/12/2010: Áp dụng rộng rãi trong toàn khối.
Từ ngày 15/12/2010 đến 30/12/2010: Cùng tập thể giáo viên trong khối, trường rút ra bài học kinh nghiệm và hoàn tất đề tài.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG:
1.1 Thuận lợi
Đối với học sinh lớp 5 là lớp cuối cấp của bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập của các em tương đối cao.
Học sinh lớp 5 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong đó, bạn học với vai trò “ Đôi bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh yếu  giảm bớt phần nào khó khăn trong học tập.
Đội ngũ giáo viên khối nhiệt tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám Hiệu và Đoàn thể nhà trường.
Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khoán nội dung chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân môn, từng bài học. Vì vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động hơn.
1.2 Khó khăn
Như đã nêu, đối tượng học sinh yếu có những khác biệt. Và hơn thế nữa, trong từng cá nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về phong cách nhận thức.Vì vậy, mỗi dạng đối tượng cần có sự tác động khác nhau.
Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, một  môn học xếp loại yếu khi điểm học lực môn dưới 5. Nhưng trong thực tế, những học sinh yếu môn Toán, Tiếng Việt thì những môn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò rất cao.
Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số, ít quan tâm đến việc học tiếng Việt.
Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục:
Đội ngũ giáo viên
Cơ sở vật chất
Chất lượng đầu vào
Trường chúng tôi luôn đứng trước khó khăn về cơ sở vật chất và chất lượng đầu vào. Trước những thách thức đó đòi hỏi người thầy phải nỗ lực bản thân, kiên trì, bền bỉ cùng nhà trường khắc phục khó khăn và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục.
Thực tế, trong lớp 5A3 mà bản thân chủ nhiệm, phần lớn các em nhà ở xa trường, nhà em Nhung cách trường đến 9 km, nhà em Điểu Thị Oanh nhà cách trường đến 10 km, ngày ngày em phải đi về 4 lượt 40 km. Nhà xa, chưa có điện, mỗi buổi tối em phải học bài bên ngọn đèn dầu, thậm chí Oanh nói: “ Có những hôm hết dầu, con phải ngồi học bên bếp lửa cô ạ!”.
Bên cạnh đó, địa bàn xã Thiện Hưng là nơi tâp trung nhiều thành phần dân tộc sinh sống, nhiều gia đình từ miền Bắc, Miền Trung, đến định cư xây dựng kinh tế mới. Với đặc thù như vậy nên học sinh trường Tiểu học Thiện Hưng A thuộc rất nhiều vùng miền khác nhau. Vì vậy, có một số học sinh thuộc con em gia đình đồng bào dân tộc STiêng, một số học sinh thuộc con em gia đình lao động nghèo, vì cuộc sống mưu sinh, vì mãi lo cho kinh tế gia đình,  một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của con em mình. Điều này phần nào đã ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em.
2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HỌC SINH YẾU:
2.1 Về phía học sinh: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân học sinh yếu có thể là do:
Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học sinh yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.
Học sinh không có thời gian cho việc tự học: Ở một số vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người thì ngoài thời gian học trên lớp, khi ở nhà các em phải phụ giúp gia đình việc đồng áng, chăn trâu, chăn bò,.
Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh.
2.2 Về phía giáo viên: Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở đây giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức.     Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản thân nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc phân tích những nguyên nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học sinh yếu. Trong phạm vi của bài viết, bản thân chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh yếu ở hai môn công cụ: Toán và Tiếng Việt.
3. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
3.1 Những biện pháp chung:
3.1.1 Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình.
Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí ... bài tập làm văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hoàn cảnh giao tiếp. Nhờ có hoàn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn.
Ví dụ:
Với đề bài : Tả cơn mưa ( Sách Tiếng Việt lớp 5 – tập 1 )
Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trường em tổ chức   “ Lễ hội trăng rằm”, tất cả đã sẵn sàng nhưng cơn mưa chợt đến. Em hãy tả lại cơn mưa đó.
Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng thú, cảm xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ tả.
3.2.2Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán và biện pháp khắc phục
Trong lớp bản thân chủ nhiệm có em Điểu Thị Huyền thì hầu như là không biết tính khi học toán. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu biểu: Không nắm được các phép tính cộng, trừ có nhớ, không thuộc bảng nhân, bảng chia. Vì vậy, các em cũng không nắm được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia phân số. Không nắm được lí thuyết bài (công thức, quy tắt).
Không nắm được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp, cách đặt tính) Từ chỗ không nắm được cấu tạo số tự nhiên nên các em cũng không nắm được cấu tạo số thập phân. Mà đối với học sinh lớp 5, các em phải làm rất nhiều bài tập về số thập phân.
Vậy, đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện.
Ôn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số thuộc cùng một hàng.
Ví dụ: 125 +217
Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng.
Ví dụ: 56 +1024
Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hoặc từ lớn đến nhỏ. Tương tự như số tự nhiên thì khi dạy số thập phân, giáo viên cũng phải yêu cầu các em thuộc các hàng trong số thập phân, nắm được dấu phẩy ngăn cách giữa phần nguyên và phần thập phân thì mới tính toán chính xác được.
Bên cạnh những học sinh không biết tính thì có những em tính còn yếu. Nguyên nhân các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng.
Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và không biết tính hoặc tính thiếu chính xác.
Vậy đối với những học sinh tính yếu thì giáo viên cần:
Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ đơn giản.
Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc giờ rèn vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai (nếu có) kịp thời.
Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản.
Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp.
Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.
Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi cần.
Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem trước bài mới.
Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và động viên kịp thời.
v         Tóm lại:
Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu, biện pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua những phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học.
Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản thân luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích hợp trong công tác phụ đạo học sinh yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của các em ngày một được nâng cao.
                                                                  PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
 1. PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ KẾT QUẢ:
Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo điều kiện cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng cho  vào  việc đổi mới dạy và phụ đạo học sinh yếu các khối 4, 5 đạt hiệu quả.
Theo dõi bảng số liệu trong hai năm học của học sinh khối 5, ta               sẽ thấy sự tiến bộ vượt bậc của các em :
NĂM HỌC
TỔNG SỐ HS KHỐI 5
SỐ HỌC SINH YẾU
Số lượng
Tỉ lệ
2008 - 2009
136
9
66%
2009 - 2010
85
2
24%
Ñaëc bieät trong naêm hoïc naøy, sau khi aùp duïng saùng kieán kinh nghieäm thì việc phụ đạo học sinh yếu trong khối, trong lớp 5A 3 bản thân mình chủ nhiệm đến thời điểm này đạt kết quả rất cao:
NĂM HỌC
TỔNG SỐ HS KHỐI 5
SỐ HỌC SINH YẾU
Số lượng
Tỉ lệ
2010 – 2011(CKI)
108
1
0,9%
NĂM HỌC
TỔNG SỐ HS LỚP 5A3
SỐ HỌC SINH YẾU
Số lượng
Tỉ lệ
2010 – 2011(CKI)
27
0
0%
2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm cần:
Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
Học sinh lớp 5 cũng thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an tâm học tập.
Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em. Và có lẽ rằng, vai trò của chúng ta:
“ Người Thầy của mọi Thầy” đã hoàn thành.
3. KẾT LUẬN:
Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng:  Đây sẽ là một tài liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về mình.
Bản thân xin kết thúc bằng hai câu chuyện sau:
Bản thân muốn giới thiệu đến đồng nghiêp một cuốn sách hay “Bách khoa toàn thư về những học trò lười”. Sách kể về những tên tuổi như Einstein, Disney, Darwin và Picassođược thế giới biết đến như những thiên tài nhưng không phải ai cũng biết họ từng là những học sinh lười biếng, không có gì nổi bật khi cắp sách đến trường nhưng họ đã để lại dấu ấn sáng chói trong lịch sử văn minh loài người. Câu chuyện trên là một thông điệp mà bản thân muốn gởi tới các em học sinh, các bậc phụ huynh, quí thầy cô, những người luôn có ước vọng nuôi dưỡng tài năng tiềm tàng chứ không đơn thuần chỉ đặt niềm tin vào những điểm số nổi bật trong lớp.
Lớp 5A3 mà bản thân chủ nhiệm có một em học sinh năng lực học còn chậm vì em hay bị bệnh động kinh hành hạ. Một lần tỉnh dậy sau cơn động kinh, em liền nói: “Cô ơi, mấy bạn của con đâu rồi? Con xuống lớp học tiếp nghe cô.”, bản thân chợt hiểu thêm về niềm vui thích của em khi đến trường. Hãy chia sẻ những kinh nghiệm giúp đỡ học sinh yếu của các thầy cô với chúng tôi, để chúng ta cùng giảm bớt những khó khăn trong học tập cho các em và giúp các em vươn xa hơn trên con đường học vấn của mình.
Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẽ của bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh yếu. Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết thực hơn và thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh yếu. Trong bài viết chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy, cô đóng góp, sửa chữa. Tôi xin chân thành cảm ơn.
                                                                                                                        Người viết 
                                                                                                                               Nguyễn Thị Quang Trinh
                                                                                                      Giáo viên  khối 5 trường Tiểu học Thiện Hưng A
Theo Violet.net
engngoan

Tài liệu đính kèm:

  • docsang kien ren hs yeu l5.doc