Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng thực hành các phép tính về phân số cho học sinh lớp 5

Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng thực hành các phép tính về phân số cho học sinh lớp 5

1.1 Trong nhà trường phổ thông nói chung và nhà trường Tiểu học nói riêng, môn toán với tư cách là môn khoa học độc lập, cùng với các môn khác góp phần tạo nên những con người phát triển toàn diện.

 Đất nước ta đang trên con đường đổi mới để sánh vai với các cường quốc năm châu trong thế kỉ 21. Đảng ta đã vạch rõ nhân tố quyết định để đạt mục tiêu chính là yếu tố con người. Chiến lược phát triển sự nghiệp giáo dục được Đảng ta coi trọng và đặt lên hàng đầu . Đó là tạo ra những con người nhanh nhạy, năng động sáng tạo có đầy đủ kiến thức, năng lực có nhân cách Việt Nam để đáp ứng với sự phát triển của xã hội.

 

doc 21 trang Người đăng huong21 Lượt xem 1259Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng thực hành các phép tính về phân số cho học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN THỨ NHẤT
PHẦN MỞ ĐẦU
 1 - Lý do chọn đề tài: 
1.1 Trong nhà trường phổ thông nói chung và nhà trường Tiểu học nói riêng, môn toán với tư cách là môn khoa học độc lập, cùng với các môn khác góp phần tạo nên những con người phát triển toàn diện.
	Đất nước ta đang trên con đường đổi mới để sánh vai với các cường quốc năm châu trong thế kỉ 21. Đảng ta đã vạch rõ nhân tố quyết định để đạt mục tiêu chính là yếu tố con người. Chiến lược phát triển sự nghiệp giáo dục được Đảng ta coi trọng và đặt lên hàng đầu . Đó là tạo ra những con người nhanh nhạy, năng động sáng tạo có đầy đủ kiến thức, năng lực có nhân cách Việt Nam để đáp ứng với sự phát triển của xã hội. 
	Có thể nói : Nếu con người của thế kỉ 21 là những " Tòa nhà cao ốc nguy nga" thì bậc Tiểu học chính là nền móng để xây dựng nên tòa nhà cao ốc đó. Bởi vậy, hơn bao giờ hết ngay từ bậc Tiểu học, chúng ta cần phải đổi mới phương pháp dạy học với mục đích giúp những " Công dân tương lai " chủ động tiếp thu kiến thức, sáng tạo trong học tập. Đây là một vấn đề bức xúc cần thiết vì nó đóng vai trò quyết định trong việc hình thành và phát triển phẩm chất trí tuệ và đạo đức của học sinh.
	 Một trong những yếu tố quyết định sự hình thành nhân cách , óc sáng tạo, khả năng tư duy độc lập, sự ham tìm tòi khám phá chính là việc học toán.
Việc dạy toán không chỉ trang bị cho học sinh những kỹ năng tính toán mà còn giúp các em biết xử lý các tình huống trong đời sống một cách khoa học. Không những thế, việc dạy toán còn góp phần quan trọng trong việc rèn phương pháp suy nghĩ, khả năng suy luận, giải quyết vấn đề, phát triển tư duy, óc sáng tạo... cho học sinh. Nó góp phần hình thành phẩm chất con người lao động: tính cần cù, cẩn thận, ý thức vượt khó, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và có tác phong khoa học. Bởi thế ngay từ bậc tiểu học cần sớm được coi trọng việc dạy toán.
1.2. Vị trí của việc dạy ôn tập nội dung phân số nói chung, các phép tính về phân số ở lớp 5 nói riêng:
Phân số là một trong những nội dung của chương trình toán học hiện đại, phân số xuất hiện chính là nhằm giải quyết tính đóng kín của phép chia. Bởi lẽ trong tập hợp số tự nhiên, thì phép chia không phải lúc nào cũng thực hiện được, khi dạy nội dung phân số chính là dạy nội dung về số hữu tỉ không âm.
( VD: 3 : 4) là bước tiếp nối để học sinh học các tập hợp số khác ở những lớp trên.
Vì vậy nội dung và phương pháp dạy học phân số nói chung, dạy “ Các phép tính về phân số” ở lớp 5 nói riêng là khó đối với những giáo viên trực tiếp dạy lớp 5 chúng tôi. Từ đó giáo viên gặp không ít những khó khăn trong vấn đề lựa chọn và vận dụng phương pháp giảng dạy để giúp học sinh hiểu biết được bản chất có kỹ năng thực hành các phép tính về phân số ở lớp 5.
Trong thực tế giảng dạy ở lớp 5, tôi nhận thấy rằng việc lĩnh hội kiến thức, vận dụng vào rèn luyện kỹ năng thực hành các phép tính về phân số của các em còn nhiều lúng túng và hay mắc sai lầm, nhầm lẫn mặc dù các em đã được học ở lớp 4... Các em chưa nhận thức rõ được các kỹ năng bộ phận và đặc biệt là việc xác định đúng kỹ năng cơ bản của một biện pháp tính này với một biện pháp tính khác về phân số ( Chẳng hạn như phép cộng với phép nhân hai phân số).
Vấn đề đặt ra ở đây với người giáo viên khi dạy ôn tập các phép toán về phân số cho học sinh lớp 5 là: Đối với một biện pháp tính nói chung, giáo viên phải có biện pháp như thế nào để giúp các em không những hiểu được bản chất của biện pháp tính đó, nắm được qui tắc mà các em còn phải có kỹ năng thực hành một cách thành thạo, ít mắc sai lầm, phát huy được khả năng hoạt động sáng tạo của các em.
Với nhận thức trên cũng như để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân trong công tác giảng dạy, tôi xin mạnh dạn đưa ra ý kiến nho nhỏ của mình về: “ Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng thực hành các phép tính về phân số cho học sinh lớp 5”.
 2 - Mục đích nghiên cứu: 
2.1. Tìm hiểu thực tế dạy học có liên quan đến kỹ năng thực hành các phép tính về phân số của học sinh lớp 5. Từ đó giúp học sinh tìm ra các sai sót thường gặp khi tìm hiểu các phép tính về phân số.
2.2. Tìm ra một số biện pháp rèn luyện kỹ năng thực hành các phép tính về phân số cho học sinh.
2.3. Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học, xác định một số khó khăn hạn chế trong quá trình dạy học.
2.4. Trau dồi thêm kiến thức cho bản thân và làm tài liệu tham khảo cho đồng nghiệp.
PHẦN THỨ HAI
 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. THỰC TRẠNG
 1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
Học sinh lớp 5 ở lứa tuổi 10, 11 tuổi các em còn ham chơi tư duy cụ thể phát triển ở giai đoạn hoàn chỉnh, nhận thức của các em đã mang tính quy luật. Song khả năng phán đoán, suy luận và tư duy logic của các em chưa cao. Chính và vậy đã hạn chế khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh, nhất là ở chương phân số, một loại số mới.
Tư duy của các em đang còn giai đoạn tư duy cụ thể, do đó việc nhận thức các kiến thức toán học trìu tượng mới lạ là một vấn đế khó đối với các em ở giai đoạn học sinh tiểu học.
Trong khi đó “ Phân số” là khái niệm hoàn toàn mới vừa mang tính áp đặt vừa mang tính trìu tượng đối với học sinh. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên cần nhận thức rõ bản chất của phân số là cặp sắp thứ tự (a,b) trong đó a là số tự nhiên và b là số tự nhiên khác không được kí hiệu là và phân số là một hình thức biểu diễn của số hữu tỉ. Học sinh cần nắm vững kiến thức nhân chia số tự nhiên, khi đã xác định rõ bản chất của phân số thì để dạy tốt chương phân số này đòi hỏi giáo viên phải có những hiểu biết nhất định về tập các số hữu tỉ không âm cùng tính chất của các phép tính trong Q+.
Vì vậy khi dạy các phép toán về phân số cho học sinh lớp 5. Giáo viên phải có biện pháp để giúp các em hiểu rõ được bản chất của biện pháp tính đó, nắm được quy tắc mà còn có kỹ năng thực hành một cách thành thạo.
 1.2 THỰC TRẠNG
 1.2.1 Thực tiễn dạy học “Các phép tính về phân số“ cho học sinh lớp 5
 Sau một thời gian trực tiếp đứng lớp cũng như qua tìm hiểu, tôi đã nắm được những thiếu hụt về kiến thức của học sinh . Để khẳng điịnh những điều băn khoăn và những suy nghĩ của bản thân, tôi đã tiến hành kiểm tra chất lượng của học sinh ở lớp 5B ( Lớp tôi chủ nhiệm ) và lớp 5A ( Lớp đối chứng) kết quả thu được như sau : 
Lớp
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
5A
25
4
16
7
28
12
48
2
8
5B
24
3
12,5
7
29,3
11
45,7
3
12,5
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở lớp 5 cùng với việc dự giờ thăm lớp, trao đổi với đồng nghiệp và qua kết quả các bài kiểm tra của học sinh lớp 5 trường tôi trong năm học vừa qua ( 2009 - 2010), tôi nhận thấy rằng:
- Những sai lầm học sinh lớp 5 thường mắc phải trong quá trình thực hành phép tính về phân số như sau:
* Sau khi ôn tập về “ Phép cộng ( trừ ) hai phân số cùng mẫu số”, sau đó chuyển sang học ôn tập về “ Cộng ( trừ ) hai phân số khác mẫu số”. Thì nhiều học sinh vận dụng qui tắc cộng ( trừ ) hai phân số cùng mẫu để thực hành ngay ( không qua bước qui đồng mẫu hai phân số ).
Ví dụ: Đối với phép tính + một số học sinh thường mắc sai lầm khi thực hành như sau: + = ( hoặc ; hoặc ) 
* Khi thực hành làm phép tính cộng ( trừ ) phân số tự nhiên hoặc ngược lại thì một số học sinh thường mắc sai lầm như sau:
Ví dụ: + 2 = ; 5 - = 
* Nguyên nhân: Sai lầm như ví dụ trên do học sinh không có kỹ năng viết số tự nhiên 2 ( hoặc 5) thành phân số có mẫu bằng mẫu số của phân số đã có trong phép tính ( 2 = ; 5 = ) để trở thành phép cộng ( trừ) 2 phân số cùng mẫu số.
* Sau khi ôn tập về phép nhân hai phân số. Tiếp đó có những bài “ Luyện tập tổng hợp” để ôn lại các phép tính về phân số thì có một số học sinh lại vận dụng qui tắc nhân hai phân số để thực hành cộng hai phân số khác mẫu số.
Chẳng hạn như: + = ( hoặc = )
- Học sinh nhầm lẫn kỹ năng thực hành phép nhân ( phép chia) số tự nhiên với phân số hoặc ngược lại.
Chẳng hạn như: 2 : = ; x 2 = 
* Trong quá trình thực hiện phép tính trong một biểu thức, có những phân số chúng ta cần rút gọn ngay trong quá trình thực hiện. Nhưng hầu hết các em không có kỹ năng đó. Mà các em vẫn thực hiện tính kết quả của các phép tính một cách bình thường.
Chẳng hạn như: Với bài + x 
 có một số giáo viên làm như sau: 
 + x = + = ...........
Trong khi đó, ở bước này ta có cách làm nhanh gọn hơn: 
 + x = + 6 =..............
Dẫn đến khi gặp các biểu thức trong đó có các phân số mà tử số và mẫu số của phân số là những số có nhiều chữ số thì học sinh thường lúng túng khi thực hiện tính kết quả.
Ví dụ: x x : x x v.v.....
* Không những thế mà học sinh còn mắc sai lầm trong việc thực hiện tính giá trị của một biểu thức đó là: Những phép tính chưa được thực hiện thì các em không viết lại trước khi viết dấu bằng tiếp theo. Hầu như các em chỉ viết một mình kết quả của phép tính được thực hiện trước.
Chẳng hạn: Bài tập + : 
 Có em làm như sau: 
 + : = 2 = + 2 = ...............
* Khi làm dạng bài tìm thành phần chưa biết trong một biểu thức có phép tính về phân số: 
Ví dụ: Bài tập : Tìm phân số biết:
 + = ; - = vv..........
Các em thường lúng túng khi thực hiện. Bởi lẽ một số em chưa nhận thức được rằng phân số cũng chính như là x hoặc y trong dạng bài tìm thành phần chưa hết trong biểu thức đối với số tự nhiên ( x + 5 = 7 ; x - 8 = 13 vv.........) 
Để từ đó các em vận dụng các qui tắc tìm thành phần chưa biết ( đã học ở lớp dưới) đối với số tự nhiên để thực hành tính 
* Kỹ năng vận dụng các tính chất của các phép tính về phân số vào việc thực hành tính nhanh giá trị một biểu thức của các em học sinh còn nhiều lúng túng và chưa thành thạo.
Chẳng hạn: Với bài tập : Tính nhanh: 
Có học sinh làm như sau: + + + = + + + = .............
( Ở bài này làm như vậy là chưa đúng yêu cầu tính nhanh. Ở đây các em chưa có kỹ năng vận dụng tính chất giao hoán, tính chất kết hợp phép cộng phân số) hoặc những bài tập dạng như sau: 
Tính nhanh: 99 x + hoặc 101 x - 
Các em thường hay lúng túng biến đổi: = x1
Để có biểu thức dạng: 99 x + x1 hoặc 101 x - x1
Từ đó các em có thể vận dụng tính chất nhận một tổng ( hoặc hiệu) với một số để tính ra kết quả cuối cùng của biểu thức một cách nhanh gọn.
việc học sinh thường mắc những sai lầm trong quá trình thực hành các phép tính về phân số có thể do :
 1.2.2 Một số nguyên nhân sau:
 - Nguyên nhân từ phía giáo viên:
 - Việc dạy về nội dung phân số chưa thực sự được chú trọng. Bởi lẽ giáo viên chưa thấy được tầm quan trọng của nội dung này.
 - Do giáo viên chưa rèn luyện cho học sinh kĩ năng thực hành 4 phép tính trên phân số.
 - Giáo viên  ... hiên với ( hoặc cho ) phân số và ngược lại gồm có 2 kỹ năng bộ phận ( cách làm thông thường ).
a/ Đưa về trường hợp nhân ( hoặc chia ) số tự nhiên với phân số và ngược lại.
b/ Kỹ năng nhân ( hoặc chia ) hai phân số
Trong hai kỹ năng trên (b) là kỹ năng cũ còn (a) là kỹ năng mới, học sinh thường hay quên do đó dẫn đến tính sai kết quả. Vậy (a) là kỹ năng cơ bản.
- Để rèn luyện kỹ năng cơ bản (a). Tôi thường cho học sinh làm thêm các bài tập trong đó chỉ cần học sinh đưa về trường hợp nhân ( chia) hai phân số ( không yêu cầu tính ra kết quả cuối cùng).
Chẳng hạn: Viết thành phép nhân hai phân số:
2 x ; x 3
Với bài tập trên học sinh chỉ cần giải như sau:
2 x = x ; x 3 = x 
Trong trường hợp này, tôi không yêu cầu học sinh phải làm tính nhân ( chia) hai phân số để tính ra kết quả cuối cùng sẽ có các bài tập khác làm nhiệm vụ này.
4. Ví dụ 4: Kỹ năng tính giá trị của biểu thức gồm nhiều phép tính, gồm có 4 kỹ năng bộ phận sau: 
a/ Kỹ năng nhận biết các phép tính có trong biểu thức ( chẳng hạn +; -; x; : và dấu ngoặc đơn).
b/ Kỹ năng xác định thứ tự thực hiện các phép tính trong biểu thức đó 
c/ Kỹ năng tính kết quả của từng phép tính theo thứ tự thực hiện trong quá trình làm tính
d/ Kỹ năng viết kết quả của từng phép tính theo thứ tự thực hiện trong quá trình làm tính.
Trong các kỹ năng trên thì (a), (c) là kỹ năng cũ, (b); (d) là kỹ năng mới. Học sinh thường mắc sai lầm khi thực hiện hai kỹ năng này.
Nhưng kỹ năng (b) vẫn là kỹ năng cơ bản nhất
- Để rèn luyện kỹ năng cơ bản (b) tôi thường cho học sinh làm bài tập dạng: Nêu thứ tự thực hiện phép tính trong biểu thức ( không yêu cầu tính ra kết quả cuối cùng)
Ví dụ: Nêu thứ tự thực hiện phép tính trong biểu thức sau:
a/ + x - b/ : + x 
c/ + - d/ x : 
e/ x + x ( + )
Với bài tập trên thì học sinh cần giải: Trình bày miệng như sau:
a. Phép nhân trước --> phép cộng --> phép trừ
b. Phép chia --> phép nhân --> phép cộng
c. Phép cộng --> phép trừ 
d. Phép nhân --> phép chia
e. Phép tính trong dấu ngoặc đơn --> phép nhân --> phép cộng hoặc có thể làm theo cách sau:
a/ + x - b/ : + x 
= + .......?.......- = ........?........+ ........?
c/ + - d/ x : 
= ........?....... - = .........?....... : 
e/ = x + x ( + )
 = x + x .........?
 = ........?........ + ..... x .......?
 = ........?........ + .............? 
Trong trường hợp tôi chưa yêu cầu học sinh tính ra kết quả cụ thể. Nhưng việc làm bài tập này rèn luyện cho học sinh được cả kỹ năng (d).
* Lưu ý: Trong quá trình rèn kỹ năng (c) cho học sinh thì tôi luôn hướng dẫn các em cách rút gọn hoặc tính nhanh kết quả trong mỗi bước tính để được kết quả đơn giản.
 Ví dụ 5: Kỹ năng tìm thành phần chưa biết ( dạng tìm phân số ) của các biểu thức dưới 4 phép tính trên phân số.
Gồm các kỹ năng sau: 
a/ Kỹ năng xác định phân số là thành phần gì chưa biết của phép tính 
b/ Kỹ năng lập phép tính để tìm phân số 
c/ Kỹ năng tính kết quả của phân số ( kết quả phép tính tìm phân số )
d/ Kỹ năng thử lại
- Trong 4 kỹ năng trên thì (c) là kỹ năng cũ còn (a, b, d) là kỹ năng mới. Nhưng trong 3 kỹ năng mới này thì kỹ năng (a) là học sinh hay lúng túng nhất. Vậy (a) là kỹ năng cơ bản.
Để rèn luyện kỹ năng cơ bản (a). Tôi thường cho học sinh làm bài tập dạng sau: ( Chưa yêu cầu tính kết quả ).
Chẳng hạn : gọi tên phân số a/b của mỗi biểu thức sau : 
 + = 
Với bài tập trên tôi yêu cầu học sinh trình bày miệng.
Trước hết : Cho học sinh nhận dạng đây là dạng toán gì? 
Sau đó cho các em xác định thành phần chưa biết. Từ đó áp dụng quy tắc tìm thành phần chưa biết ( như đối với số tự nhiên đã học ở lớp dưới) để tìm kết quả bài toán.
Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy cần chú ý tới cả 3 đối tượng . Do đó tôi luôn quan tâm đến học sinh giỏi . Bằng cách giao thêm các bài tập ở mức độ cao hơn, cần đến sự mềm dẻo của tư duy và hoạt động sáng tạo của học sinh ngay trong từng tiết học hoặc giao thêm bài tập về nhà cho các em.
Sau đây là một số ví dụ về dạng bài tập tôi cần rèn luyện thêm cho học sinh giỏi: 
Ví dụ : Tính nhanh 
Với dạng bài này tôi thường hướng dẫn học sinh giải quyết như sau : 
Bước 1: Đánh số thứ tự các phân số trong biểu thức
 1 2 3 4 5
 Bước 2 : Nhận dạng biểu thức
 Hỏi : Các tử số và mẫu số trong biểu thức trên có gì đặc biệt ? 
 Bước 3 : Đưa về dạng phân số có tử số, mẫu số là tích các thừa số
 = = = 1
Bước 4 : Áp dụng tính chất cơ bản của phân số để rút gọn
 	Với dạng bài tập trên thì các em thường hay lúng túng ở bước 3 . Do vậy tôi thường giao thêm bài tập chỉ yêu cầu học sinh nêu cách nhóm các phân số trong biểu thức( không yêu cầu tính kết quả) 
	Ví dụ 2 : Tính nhanh 
a. + b. - 
Đối với dạng bài tập trên cần rèn cho học sinh các kĩ năng sau :
 - Viết thành biểu thức có hai phép nhân
- Áp dụng nhân một tổng ( Một hiệu ) với một số
- Tính kết quả của biểu thức
Với bài tập có dạng như trên, tôi thường hướng dẫn học sinh giải như sau : 
a. + = 1+ = ( 1 + 99 ) = 100
b. - = - = ( 1001 - 1) = 1000
 Ví dụ 3: Tính giá trị biểu thức bằng cách thuận tiện nhất : 
A = 
B = 
C = 
 Đối với những bài tập có dạng như trên, tôi thường hướng dẫn học sinh như sau : 
Bước 1: Xác định qui luật của dãy phân số trong biểu thức
Bước 2: Viết mỗi phân số thành phép trừ hai phân số có tử số là 1
Bước 3: Tính kết quả biểu thức
 Với hướng giải quyết đã nêu, các bài tập trong ví dụ 3 được giải quyết như sau : 
 A = 
 A = 
 A = 
A= 1- 
B = 
B = ( 1- 
B = 1- = 1- = 
C = 
C = 2
C = 2 
C= 2
C = 2 = 
Ví dụ 4: Tính nhanh
a. b. 
Đối với dạng này, tôi hướng dẫn học sinh như sau : 
- Gợi ý để học sinh nhận xét: 
+ Các chữ số ở tử số và mẫu số được lập lại theo thứ tự nhất định
+ Dựa vào cách phân tích các số đặc biệt để phân tích các số ở tử số và mẫu số thành tích hai thừa số rồi rút gọn.
Giải
 a. = = 
 b. = 
Từ việc rèn kĩ năng cơ bản như trên, tôi nhận thấy rằng : Các em nắm được cách làm và có kĩ năng làm các bài tập dạng này.Tiếp đó để nâng dần và phát triển khả năng tư duy của các em, tôi giao thêm các bài tập ở mức độ cao hơn.
Với cách làm như trên, tôi thấy các em học sinh khá giỏi nắm bắt nhanh và làm thành thạo dạng bài tập này. 
PHẦN THỨ BA
 KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
 1. Kết quả đạt được
Qua thời gian kiên trì thực hiện việc “ rèn kĩ năng thực hành các phép tính về phân số cho học sinh lớp 5” tôi nhận thấy : HS quen dần, bắt đầu từ việc rèn kĩ năng bộ phận đặc biệt là kĩ năng cơ bản trong một phép tính về phân số của HS lớp 5 được hình thành với mức độ yêu câù từ đơn giản đến phức tạp. 
 - HS có kĩ năng thực hành, biết xác định kĩ năng cơ bản trong một biện pháp tính.
 - HS khá giỏi có thể làm được bài tập ở mức độ cao hơn.
 Những biện pháp tôi trình bày và áp dụng dạy ở lớp 5 từ nhiều năm qua, đặc 
biệt là trong năm học 2009- 2010 này tôi đã áp dụng tại lớp 5B do tôi phụ trách.
 Cụ thể tiến hành so sánh qua chất lượng của bài kiểm tra khảo sát tháng 10 của 2 lớp 5B và 5A sau khi học xong phần ôn tập các phép tính về phân số kết quả như sau : 
Lớp
 Loại
 5A	
 5B
Giỏi
 8em = 32%
 9em = 37.5%
Khá
 10em = 40%
 10 em = 41,6%
Trung bình
 6em = 24%
 5em = 20,9%
Yếu
 1em = 4%
 0
Nhận xét: Qua kết quả trên, ta thấy rằng chất lượng của lớp 5B cao hơn hẳn lớp 5A. Trong bài, các đối tượng học sinh khá,giỏi của lớp 5B đã biết vận dụng kiến thức đã học để tính nhanh .
 Từ kết quả kiểm tra này tôi khẳng định kết quả lớp 5B cao hơn là do HS nắm được kiến thức cơ bản và kĩ năng thực hành tốt. 
 2. Bài học kinh nghiệm 
 Thực tế dạy học hằng năm cho thấy: Việc rèn luyện kĩ năng thực hành các phép tính về phân số cho HS lớp 5 là nội dung rất quan trọng trong chương trình môn toán. Bởi vậy:
 - Để giúp HS nắm và vận dụng thành thạo một biện pháp tính người giáo viên cần phải xác định được hai khâu cơ bản đó là :
 + Làm cho HS hiểu biện pháp tính
 + Giúp HS biết làm tính, luyện để tính được đúng và thành thạo. Có thể theo các bước sau:
 Bước 1: Ôn lại kiến thức cũ, kĩ năng có liên quanbằng các phương pháp : Hỏi đáp, luyện tập.......Vì sau thời gian dài nghỉ hè những kiến thức, kĩ năng về thực hành các phép tính về phân số hầu như các em đã quên đi quá nhiều.
 Giáo viên cần giúp HS phân biệt những kiến thức, kĩ năng cũ hỗ trợ cho kiến thức kĩ năng mới mà HS dễ nhầm lẫn.
Bước 2 : Dạy biện pháp tính mới
 Bước 3: Luyện tập rèn kĩ xảo
 Ở bước này GV cần chú ý đến tính vừa sức riêng để đưa ra các bài tập phù hợp với cả ba đối tượng.
 Bước 4: Vận dụng và củng cố
 2. Ở tiết luyện tập tổng hợp, các buổi phụ đạo GV cần có sự mở rộng và nâng cao kiến thức cho HS khá giỏi.
 3. GV cần có sự sáng tạo trong việc lựa chọn hình thức tổ chức dạy học sao cho gây hứng thúhọc tập của HS.
 4. Cần tăng cường kiểm tra, chấm chữa bài cho HS
 5. GV cần phải lựa chọn các phương pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả giờ dạy
 3. Những kiến nghị, đề xuất:
 3.1 Đối với nhà trường : 
 Các trường cần xây dựng đội ngũ GV dạy lớp 5 nhiều kinh nghiện, như vậy GV mới có điều kiện để nghiên cứu sâu
 3.2 Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo : 
 Phòng giáo dục cần thường xuyên tổ chức các lớp chuyên đề về môn toán cho các giáo viên trực tiếp dạy lớp 5 trong năm học tham gia. Bên cạnh đó cũng cần phổ biến để mọi giáo viên trong huyện học tập các sáng kiến đạt giải để áp dụng vào giảng dạy nhằmnang cao chất lượng. 
	 Qua việc nghiên cứu và vận dụng trong giảng dạy ở trường tôi về rèn kĩ năng thực hành các phép tính về phân số cho HS lớp 5, do thời gian có hạn cộng với năng lực còn hạn chế, tôi chỉ trình bày những quan điểm của mình . Đây là những kinh nghiệm nhỏ của bản thân. Do đó sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp và bạn đọc. 
 Tôi xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
TÊN SÁCH
TÁC GIẢ
NHÀ XUẤT BẢN
1
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TOÁN - TẬP 2 
ĐỖ TRUNG HIỆU - KIỀU ĐỨC THÀNH- NGUYỄN HÙNG QUANG 
NXB GIÁO DỤC NĂM 1998
2
Giáo trình tâm lí lứa tuổi học sinh Tiểu học
Đặng Vũ Hoạt ( Chủ biên ) - Phó Đức Hòa
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 
3
SÁCH GIÁO KHOA TOÁN 5 
ĐỖ ĐÌNH HOAN ( CHỦ BIÊN)
NXB GIÁO DỤC NĂM 2000
4
Sách giáo viên toán 5
Đỗ Đình Hoan ( Chủ biên) 
NXB Giáo dục năm 2000
5
VỞ BÀI TẬP TOÁN 5
ĐỖ ĐÌNH HOAN ( CHỦ BIÊN)
NXB GIÁO DỤC NĂM 2000
6 
Toán bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 5
Nguyễn áng - Dương Quốc ấn - Hoàng Thị Phước Thảo - Phan Thị Nghĩa 
NXB Giáo dục năm 2003
7 
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Ở TIỂU HỌC
PTS - ĐỖ ĐÌNH HOAN 
NXB GIÁO DỤC NĂM 1999

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN cac phep tinh ve phan so.doc