Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp kèm cặp học sinh yếu môn Toán Lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp kèm cặp học sinh yếu môn Toán Lớp 5

I/ Lời nói đầu :

1/ Lý do chọn đề tài.

“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”. “Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước”.Chúng ta phải thường xuyên, liên tục đào tạo những lớp người kế thừa xã hội khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Do đó con người phải có vốn kiến thức đặc biệt là kiến thức toán học cơ bản . Kiến thức toán học là tiền đề , là điều kiện là chìa khóa mở đường cho con người vào tất cả các lĩnh vực khoa học khác đồng thời nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới, thời đại hội nhập hiện nay.

Trong giáo dục nước ta, đặc biệt là ở Tiểu học môn Toán rất được chú trọng. Đây là môn chiếm rất nhiều tiết trong chương trình, đứng thứ 2 sau Tiếng Việt. Chúng ta đang thực hiện đổi mới toàn diện về nội dung cũng như phương pháp giảng dạy để đạt chuẩn kiến thức đã quy định.

Học sinh Tiểu học khi tiếp cận chương trình toán rất say mê, hứng thú ở những lớp đầu cấp với các em khá giỏi. Tuy nhiên với đối tượng học sinh trung bình và học sinh yếu ở những lớp cuối cấp thì lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc học tập môn Toán. Do các em “hổng” kiến thức hoặc không theo kịp chương trình từ các lớp dưới .Dạng toán các em gặp khó khăn là toán chuyển động, hình học, giải toán có lời văn.

 

doc 13 trang Người đăng phuonght2k2 Ngày đăng 15/03/2022 Lượt xem 277Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp kèm cặp học sinh yếu môn Toán Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHẦN I: LÝ LỊCH
Họ và tên: 	Ngô Hoàng Mai
Chức vụ: 	Giáo Viên dạy lớp 5
Đơn vị công tác: 	Trường Tiểu học Thị trấn GR 2
Tên đề tài : “ Biện pháp kèm cặp học sinh yếu môn Toán lớp 5”.
PHẦN II: NỘI DUNG
I/ Lời nói đầu :
1/ Lý do chọn đề tài.
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”. “Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước”.Chúng ta phải thường xuyên, liên tục đào tạo những lớp người kế thừa xã hội khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Do đó con người phải có vốn kiến thức đặc biệt là kiến thức toán học cơ bản . Kiến thức toán học là tiền đề , là điều kiện là chìa khóa mở đường cho con người vào tất cả các lĩnh vực khoa học khác đồng thời nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới, thời đại hội nhập hiện nay.
Trong giáo dục nước ta, đặc biệt là ở Tiểu học môn Toán rất được chú trọng. Đây là môn chiếm rất nhiều tiết trong chương trình, đứng thứ 2 sau Tiếng Việt. Chúng ta đang thực hiện đổi mới toàn diện về nội dung cũng như phương pháp giảng dạy để đạt chuẩn kiến thức đã quy định.
Học sinh Tiểu học khi tiếp cận chương trình toán rất say mê, hứng thú ở những lớp đầu cấp với các em khá giỏi. Tuy nhiên với đối tượng học sinh trung bình và học sinh yếu ở những lớp cuối cấp thì lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc học tập môn Toán. Do các em “hổng” kiến thức hoặc không theo kịp chương trình từ các lớp dưới ...Dạng toán các em gặp khó khăn là toán chuyển động, hình học, giải toán có lời văn...
Học sinh lớp 5 của trường tôi đa số là con gia đình nghèo, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, từ đó học sinh có trình độ không đồng đều, học sinh yếu môn toán còn cao. Vì vậy từ đầu năm tôi đã phải đi sâu nghiên cứu “Biện pháp kèm cặp học sinh yếu Toán lớp 5” để các em có kiến thức theo kịp các bạn trong lớp, đạt chuẩn kiến thức môn học, trở thành người có ích cho xã hội. 
*Cơ sở lý luận:
Đã nói đến dạy và học thì không thể không nói đến phương pháp dạy và phương pháp học, hai hoạt động này phải diễn ra một cách song song, nhịp nhàng. Nếu chỉ chú ý đến truyền thụ tri thức cho HS mà không chú ý đến việc tiếp thu kiến thức của từng đối tượng học sinh thì hiệu quả của tiết dạy đem lại không cao, học sinh không tiếp thu bài tốt dẫn đến làm bài sẽ hạn chế. Khi học sinh đã tiếp thu được tri thức tốt, ắt sẽ đạt được tri thức theo chuẩn kiến thức yêu cầu.
Trong dạy- học toán lớp 5 việc kèm cặp học sinh yếu đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, nhẫn nại và diễn ra thường xuyên trong mọi tiết toán. Ở học sinh đòi hỏi học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, khoa học .Khi giải bài tập phải vận dụng tất cả các kiến thức và khả năng đã có vào các bài tập với nhiều dạng khác nhau.
*Cơ sở thực tiễn:
Trong thực tế các trường Tiểu học trong huyện nói chung và trường tiểu học Thị trấn Giồng Riềng 2 nói riêng vẫn còn học sinh yếu môn Toán.
 Nguyên nhân trong giờ dạy toán việc tìm và sáng tạo phương pháp biện pháp giảng dạy phù hợp với yêu cầu bài học và đối tượng học sinh còn hạn chế. Vậy cần phải làm cho các em chủ động hơn trong việc học tập và giải toán. Đây là việc làm mà GV dạy lớp 5 phải suy nghĩ. 
Tuy nhiên trong thực tế cũng còn rất nhiều em trống kiến thức từ lớp dưới, lười học, chưa tích cực giải bài tập dẫn đến yếu toán.
2/ Sơ lược lịch sử vấn đề:
Đầu năm học được nhà trường phân công giảng dạy lớp 5. Tôi thấy tình hình học tập và trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, gia đình quan tâm chưa đúng mức, ý thức học tập của học sinh chưa tốt, việc học bài, làm bài ở lớp và ở nhà không thường xuyên. Có những dạng toán khá dễ nhưng các em vẫn làm sai hoặc không biết cách làm, cách tính, dẫn đến điểm môn Toán thấp. Tất cả những điều đó thôi thúc Tôi tìm hiểu nghiên cứu đưa ra một số “Biện pháp kèm cặp học sinh yếu môn toán lớp 5 ” nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy môn Toán để các em đạt chuẩn kiến thức môn học.
3/ Phạm vi đề tài:
Đề tài: “ Biện pháp kèm cặp học sinh yếu môn Toán lớp 5” được Tôi áp dụng trong 2 năm học qua đạt kết quả cao.
II/ THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:
1/ Thực trạng tình hình:
Trước tình hình học sinh yếu nói chung và học sinh yếu toán nói riêng, tại trường Tiểu học Thị Trấn Giồng Riềng 2 và thực tế tình hình học sinh yếu toán lớp Tôi đang phụ trách qua khảo sát chất lượng đầu năm cho thấy:
TSHS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Lớp 5/4
18/5
4/2
9/2
5/1
Đầu năm học hàng năm, ban giám hiệu đưa ra phương hướng nhiệm vụ năm học. Trong đó đặc biệt chú trọng đến đối tượng học sinh yếu. Ngay từ đầu năm đã chỉ đạo giáo viên phải có biện pháp, việc làm cụ thể để giúp các em đến hết năm học đạt chuẩn theo quy định. Giáo viên các lớp rất nhiệt tình kèm cặp nhưng do các em mất căn bản ở lớp dưới, kiến thức “ hổng” dẫn đến ngại học toán, yếu toán.
2/ Những hạn chế khó khăn khi giải quyết vấn đề trong thực tế.
-Học sinh của tôi chủ yếu nằm ở điểm lẽ đa số là con nông dân nhà nghèo,không có ruộng đất phải đi làm thuê kiếm sống hàng ngày ít quan tâm hoặc không quan tâm đến việc học của con em, chưa xem trọng việc học của con em dẫn đến tỷ lệ học sinh yếu toán nhiều. Còn một số bộ phận gia đình rất quan tâm đến các em nhưng không biết cách dạy, cách giải toán hiện nay, dẫn đến con họ cũng yếu toán.
	- Một số em chưa ham thích học môn Toán, từ đó chưa tích cực tiếp thu bài giảng, hiểu bài chưa chắc chắn dẫn đến làm bài tập còn sai nhiều, nhất là các bài mang tính trừu tượng. Hoặc một số em do hoàn cảnh khó khăn hay phải nghỉ học phụ giúp gia đình dẫn đến “trống” kiến thức.
- Học sinh hạn chế về trí não hoặc trống quá nhiều kiến thức ví dụ: như chưa thuộc bảng nhân bảng chia, chưa biết làm toán nhân chia, chưa biết làm các bài toán có lời văn đơn giản, chưa biết so sánh hai số thập phân, đã thế lại lười học, hay nghỉ học.
	Tóm lại: Trình độ nhận thức của các em không đồng đều, đó là những em yếu kém về học lực, có khả năng nhận thức chậm, hổng kiến thức nhiều so với yêu cầu của chuẩn kiến thức. Nguyên nhân chủ yếu có thể bắt nguồn từ yếu tố tự nhiên như não chậm phát triển, yếu tố nhân cách lười học, yếu tố hoàn cảnh là gia đình nghèo hoặc thiếu tài liệu học tập.
	Từ những khó khăn trên tôi đưa ra một số biện pháp kèm cặp học sinh yếu môn toán lớp 5.
III/ NHỮNG BIỆN PHÁP VÀ KẾT QUẢ
1/ Giải pháp đã thực hiện:
Là giáo viên chủ nhiệm việc kèm cặp học sinh yếu, bồi dưỡng học sinh giỏi, luyện cho các em viết theo mẫu chữ hiện hành, ... là trách nhiệm khá nặng nề, để nâng cao công tác giảng dạy đạt chất lượng cao, bản thân người giáo viên phải có tâm huyết với nghề nghiệp, phải có lòng yêu nghề , mến trẻ, có óc sáng tạo sử dụng linh hoạt các phương pháp biện pháp tích cực để cuối năm học sinh có đủ kiến thức lên lớp đạt 98% trở lên. Đây là thước đo về trình độ tay nghề chuyên môn của giáo viên. Cho nên người giáo viên phải biết nắm chắc nội dung cơ bản của toán lớp 5.
-Căn cứ vào trình độ nhận thức của từng đối tượng học sinh.
-Căn cứ vào sự chuẩn bị bài ở nhà, khả năng áp dụng kiến thức đã học vào làm toán.
*Xác định các kiến thức học sinh cần học:
+Hệ thống hóa toàn bộ kiến thức toán học, các em đã học ở lớp dưới.
Nắm được các mảng kiến thức sau:
- Về số và phép tính.
- Về đo lường
- Về hình học
- Về giải bài toán có lời văn.
- Về một số yếu tố, số thống kê.....
Cho nên người giáo viên dạy lớp 5 ngoài việc dạy chương trình lớp 5 cần phải biết kèm cặp học sinh yếu toán theo các mảng kiến thức cơ bản trên.
+ Biện pháp Giúp học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề của bài học.
-Giáo viên gợi mở, học sinh tự phát hiện vấn đề của bài học rồi giúp học sinh huy động những kiến thức và kinh nghiệm đã tích lũy để tự mình ( hoặc cùng các bạn trong từng nhóm nhỏ, nhóm lớn) tìm ra mối quan hệ của vấn đề đó với các kiến thức đã học, rồi tự tìm cách giải quyết vấn đề.
	Ví dụ: Khi dạy bài : “So sánh số thập phân” ( lớp 5) GV có thể hướng dẫn HS tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học. 
Chẳng hạn: GV nêu ví dụ 1 trong SGK: “So sánh 8,1m và 7,9 m” . Hoặc nêu: Khi so sánh hai số đo độ dài về thực chất phải so sánh hai số nào?”... Cho HS nhận xét để nhận ra rằng: Hai số đo độ dài 8,1m và 7,9m đã có cùng đơn vị đo là mét, nên so sánh hai số đo độ dài này, về thực chất là so sánh số thập phân 8,1 và 7,9. Đây chính là vấn đề cần giải quyết. Để giải quyết vấn đề của bài học GV có thể cho học sinh tự nêu cách giải quyết hoặc trao đổi ý kiến trong nhóm để tìm phương án giải quyết.
	Theo cách giải quyết của SGK thì học sinh phải huy động các kiến thức đã học theo trình tự như sau:
- Để so sánh 8,1 và 7,9 ta so sánh 8,1m và 7,9m.
- Để so sánh 8,1m và 7,9m ta so sánh 81dm và 79dm (GV phải cho HS ôn lại bảng đơn vị đo độ dài với hai đơn vị liền kề là m và dm) ( vì 8,1m =81dm và 7,9m = 79dm).
- Để so sánh 8,1dm và 7,9dm ta so sánh 81 và 79 (Vì 81 và 79 đều có đơn vị đo là dm).
- Mà 81 > 79 (vì ở hàng chục tức là hàng cao nhất của số tự nhiên này có 8>7 ).
Như vậy từ 81 > 79 ta có 81dm > 79dm tức là 8,1m > 7,9m. Do đó 8,1 > 7,9. 
Kết luận : Trong hai số thập phân có phần nguyên khác nhau, số thập phân nào có phần nguyên lớn hơn thì số đó lớn hơn.
+ Biện pháp tạo điều kiện cho học sinh củng cố và vận dụng kiến thức mới học ngay trong tiết học bài mới để học sinh bước đầu tự chiếm lĩnh kiến thức.
Trong SGK Toán lớp 5, sau phần học bài mới thường có 3 bài tập để tạo điều kiện cho HS củng cố kiến thức mới học qua thực hành và bước đầu vận dụng kiến thức mới học để giải quyết vấn đề liên quan trong học tập và trong đời sống. GV nên chọn trong số các bài tập này một số bài tập sẽ cho học sinh làm và chữa ngay tại lớp. HS có thể làm tiếp các bài tập còn lại ngay tại lớp ( nếu còn thời gian ) hoặc có thể làm bài khi tự học.
Chẳng hạn, với bài học “ So sánh hai số thập phân”, sau phần học bài mới nên cho HS làm bài tập 1 và bài tập 2 rồi tự chữa bài tại lớp. Ở bài tập 1, HS thực hành trực tiếp quy tắc vừa học để so sánh hai số thập phân; ở bài tập 2, HS vận dụng quy tắc so sánh hai số thập phân để so sánh năm số thập phân rồi sắp xếp chúng theo thứ tự từ bé đến lớn. Sau khi HS đã làm và chữa từng bài tập 1 và bài 2, nếu còn thời gian GV nên cho HS củng cố bài học bằng cách nhắc lại quy tắc mới học. 
Quá trính tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề của bài học, bước đầu vận dụng kiến thức mới học sẽ góp phần giúp HS tự chiếm lĩnh kiến thức mới, thực hiện “ Học thông qua hoạt động” 
+ Biện pháp hướng dẫn HS nhận ra các kiến thức đã học, trong đó có dạng bài tương tự đã làm trong các bài tập đa dạng và phong phú của Toán 5.
Nếu HS tự đọc (đọc thành tiếng h ... ạn chế (nếu có) trong bài làm của mình hoặc của bạn và tự đề xuất phương án điều chỉnh.
+ Biện pháp tập cho HS có thói quen tìm nhiều phương án và lựa chọn phương án hợp lí nhất để giải quyết vấn đề của bài tập, không nên thoả mãn với kết quả đã đạt được. 
-Khi HS chữa xong bài hoặc khi GV nhận xét bài của HS, GV nên động viên, nêu gương những HS yếu đã hoàn thành nhiệm vụ hoặc đã có cố gắng trong luyện tập thực hành, tạo cho HS niềm tin vào sự tiến bộ của bản thân, tạo cho các em niềm vui vì những kết quả đã đạt được của mình.
- Khuyến khích HS không chỉ hoàn thiện nhiệm vụ khi luyện tập, thực hành mà còn tìm cách giải quyết khác nhau, lựa chọn phương án hợp lí để giải bài Toán hoặc để giải quyết một vấn đề trong học tập; khuyến khích HS giải thích, trình bày bằng lời nói phương pháp giải bài tập, Dần dần, HS yếu sẽ có thói quen không bằng lòng với kết quả đã đạt được và có mong muốn tìm giải pháp tốt nhất cho bài làm của mình, tìm được cách diễn đạt hợp lí nhất cho phương pháp làm bài của mình.
Ví dụ : Với bài tập: “Tính bằng cách thuận tiện nhất: “4,2 + 3,5 + 4,5 +6,8” Hs có thể tính bằng một số cách khác nhau, nhưng cách nào cũng phải thể hiện được sự “thuận tiện”. (trong bài tập này, sự thuận tiện thể hiện ở chỗ: HS sử dụng tính chất của phép cộng các số thập phân để tính cho hợp lí). Chẳng hạn, khi chữa bài, HS có thể nêu hai cách tính như sau:
Cách 1:
	4,2 + 3,5 + 4,5 + 6,8 = 4,2 + (3,5 + 4,5) +6,8 
	 =4,2 + 8 + 6,8
	 =(4,2 + 6,8) + 8
	 =11 + 8 = 19
Cách 2:
	4,2 + 3,5 + 4,5 +6,8 = (4,2 + 6,8) + (3,5 + 4,5)
	 =11 + 8 =19
Sau khi HS nêu hai cách tính như trên, GV tổ chức cho HS trao đổi ý kiến để thấy: 
- Cả hai cách tính đều sử dụng tính chất giao hoán và tính chất kết hợp của phép cộng để dẫn tới tính hai tổng ( 4,2+6,8) và (3,5 +4,5) rồi cộng kết quả tính (11+8).
- Ở cách 1, HS sử dụng lần lượt từng tính chất của phép cộng; Ở cách 2 HS đồng thời sử dụng cả hai tính chất của phép cộng. Cả hai cách đều “ thuận tiện” và dẫn tới kết quả đúng.
- Mọi cách tính có thể là “thuận tiện nhất” theo quan niện của từng đối tượng HS. GV không nhất thiết phải yêu cầu HS khẳng định cách nào là “thuận tiện nhất” điều quan trọng là HS nhận được lời động viên, khuyến khích của GV, của các bạn và tự HS rút ra được những kinh nghiệm khi làm bài.
	Với cách dạy học như thế , GV không nhất thiết phải lo lựa chọn thêm bài tập cho đối tượng HS có nhu cầu làm thêm bài tập mà có thể giúp HS khai thác sâu trong quá trình thực hiện một số bài tập thực hành có sẵn trong SGK. Đồng thời, cách dạy học như vậy sẽ tạo cho HS có thói quen không thỏa mãn với kết quả đạt được, tạo cho HS hứng thú tìm tòi, sáng tạo trong học tập Toán.
+ Biện pháp Củng cố nề nếp lớp, nề nếp học tập của học sinh:
Đầu năm phân loại trình độ học sinh, sắp xếp trong tổ có cả bốn đối tượng học sinh: Giỏi, khá, trung bình, yếu. Cách sắp xếp này có tác dụng lớn trong khi học nhóm các em có điều kiện học hỏi ngay tại nhóm khi thảo luận. Ngoài việc chia tổ như trên giáo viên chủ nhiệm cần lưu ý sắp xếp học sinh ngồi từng bàn cũng vậy, cứ xếp một em yếu thì một em khá hoặc giỏi, để khi thảo luận nhóm đôi học sinh mới làm được bài tập và từ việc thảo luận thành công bài tập thì tự nhiên em khá giỏi đã giúp đỡ cho em yếu.
 	 +Biện pháp giúp đỡ trực tiếp các em trong học tập tại lớp:
	-Việc kiểm tra bài cũ trên lớp giáo viên chủ nhiệm nên lưu ý kiểm tra những em yếu nhiều hơn để có dịp giúp các em những kiến thức còn yếu vì nhiều em tự mình làm không được nhưng khi có sự gợi ý của giáo viên thì làm được và từ đó nhớ rất lâu.
-Trong truyền thụ kiến thức bài mới cũng vậy giáo viên chủ nhiệm nên hỏi nhiều ở các em học yếu để giúp các em nắm được kiến thức bài giảng ngay tại lớp và áp dụng làm được bài tập.
Ngoài ra giáo viên chủ nhiệm cần kiểm tra từng em xem các em yếu do nguyên nhân gì? Ở lớp tôi có 5 em (Đang , Điền, Hiếu, Trang, Tiến ) đều bị trống kiến thức từ lớp 3; lớp 4: như chưa thuộc bảng nhân chia, chưa nắm vững thứ tự các số đo độ dài, đơn vị đo diện tích, chưa nắm được cách tính chu vi, diện tích các hình trong chương trình, chưa biết quy đồng mẫu số...Có nghĩa là các em trống quá nhiều kiến thức. Để giúp các em này giáo viên chủ nhiệm phải bồi dưỡng riêng. Trước hết đến liên hệ với phụ huynh học sinh để kết hợp cùng chăm lo việc học tập cho các em, sau nữa là cả gia đình, giáo viên chủ nhiệm cùng động viên, phân tích để các em thấy được ích lợi của môn Toán từ đó các em có ý thức hơn trong việc học môn toán.
Căn cứ kiến thức trống của các em tôi giao việc về nhà cho các em. Ví dụ: Chưa thuộc bảng nhân, bảng chia tôi giao cho các em trong tuần phải thuộc 1-đến 3 bảng nhân, ... Bảng chia cũng vậy, khi giao hết hạn phải kiểm tra, tuyệt đối không nên nặng lời với các em này, vì các em học yếu nhưng rất hay tự ái. Cứ như vậy vừa cung cấp kiến thức bài mới, vừa từng bước giải quyết kiến thức trống ở lớp dưới đặc điểm của 5 em này là tiếp thu bài mới cũng rất chậm và thường thì không giải được bài tập của chương trình, nên trong khi dạy giáo viên chủ nhiệm phải hết sức quan tâm bằng cách gọi lên bảng trực tiếp hướng dẫn để các em làm, hoặc xuống tận nơi các em ngồi để hướng dẫn cho các em làm bài ấy xong có thể cho bài khác tương tự xem các em làm có đúng không, có như vậy các em mới nhớ lâu kiến thức và từ học yếu dần dần vượt lên trung bình thậm chí còn vựơt lên khá.
Giáo viên chủ nhiệm phải giáo dục các em về thái độ và tinh thần học tập, lấy các gương vượt khó học giỏi ngay trong trường, trong lớp để giáo dục các em noi theo. Trong các số em này cũng còn nhiều em trống kiến thức hoặc kiến thức nắm chưa chuẩn, từ đó làm bài tập còn sai chỉ đạt 50% số lượng bài tập. Cũng như giúp học sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm cũng giao việc cụ thể cho từng em những kiến thức các em còn trống ( có kiểm tra) đồng thời trong truyền thụ kiến thức lớp 5 đang học phải thật tốt, nếu không lại tiếp tục bị trống kiến thức ngay lớp mình đang học.
Để đạt được yêu cầu này đòi hỏi giáo viên phải chịu khó nghiên cứu tìm tòi các phương pháp biện pháp dạy học thích hợp để các em ham thích học toán và khi học toán thì đạt yêu cầu ngay trong tiết học.
-Tôi xếp em giỏi gần em yếu, khi áp dụng làm bài tập thực hành nên giao theo nhóm đôi để em khá giỏi giúp đỡ em yếu, nhưng giáo viên phải hướng dẫn cho các em khá giỏi biết cách dướng dẫn cho các em yếu, biết cách để cùng làm, chứ không phải nhìn bạn làm rồi ghi kết quả. Có nghĩa là em khá giỏi thay mình hướng dẫn cho các em yếu làm bài tập. 
Khi thời gian làm bài tập hết gọi học sinh nêu cách giải và kết quả thì nhóm hai em nên gọi em yếu trả lời, để tạo cho các em nêu lại cách làm một lần nữa, các em sẽ nhớ lâu hơn.
	 Lớp tôi có 5 em học yếu tôi thấy các em còn gặp lúng túng ở các dạng toán của lớp 4 như “Tìm hai số khi biết tổng và tỷ của hai số đó”và các bài tập về diện tích các hình các em nắm phần lý thuyết chưa chắc chắn hoặc nhớ lầm lẫn giữa tìm diện tích hình này với hình kia. Đặc biệt là các bài toán có lời văn còn dấu các sự kiện bên trong thì các em không làm được. Biết được yếu điểm của các em như vậy giáo viên chủ nhiệm có biện pháp phụ đạo ngay chỗ trống này cho các em, thì sau một thời gian các em sẽ học tốt .
	Công việc làm này không đơn giản vì chúng ta phải sưu tầm sách, tìm tòi cách giải đòi hỏi giáo viên phải nhiệt tình và biết hi sinh thời gian cho các em. 
2. Kết quả đạt được: 
Với những biện pháp tôi đã nêu trên, nhờ có quyết tâm rèn học sinh yếu đã mang lại kết quả rất khả quan nâng dần không còn học sinh yếu kém, tỷ lệ học sinh trung bình, khá, giỏi đều tăng.
TSHS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Lớp 5/4
18/5
3/2
5/2
10/1
0
V/ KẾT LUẬN
1/ Tóm lược biện pháp.
Từ môn học toán người giáo viên giúp học sinh lớp 5 nói riêng và học sinh tiểu học nói chung có kỹ năng, kỹ xảo tìm tòi tri thức tính toán một cách chính xác, tạo cho các em có kiến thức cơ bản làm cơ sở tiền đề cho học lên THCS . Với sự tự giác rèn luyện học sinh yếu và cách đổi mới hình thức, phương pháp, biện pháp dạy học mới tiến bộ giúp học sinh tích cực tìm tòi khám phá để tiếp thu vốn kiến thức toán một cách khoa học và có hiệu quả cao. 
2/ Phạm vi áp dụng của đề tài:
“Một số biện pháp kèm học sinh yếu môn toán lớp 5”có thể áp dụng với bất cứ giáo viên nào đang dạy lớp 5 Trường Tiểu học Thị Trấn Giồng Riềng 2.
3/ Bài học kinh nghiệm.
	-Đầu năm phân loại trình độ Hs, nắm chắc đối tượng HS yếu.
	-Giáo viên phải thực sự nhiệt tình, yêu nghề, kiên trì kèm cặp HS, không nóng tính, phải mềm dẻo, chia sẽ với học sinh
	-Thường xuyên khuyến khích động viên khen ngợi là chính.
	-Biết HS yếu “trống” kiến thức gì để kèm cặp, bổ sung cho HS.
	-Sắp xếp chỗ ngồi HS hợp lý, phân công HS khá , giỏi kèm cặp tiếp.
	Không có phương phápbiện pháp dạy học nào là tối ưu hay vạn năng, chỉ có lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nghề mến trẻ của người thầy mới mang lại kết quả cao trong giảng dạy. Chất lượng học sinh là chiếc chìa khoá vàng tri thức để mở ra cho các em cánh cửa tương lai tươi sáng ở một ngày mai. Đó là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên. Trong khuôn khổ hạn hẹp của sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân Tôi suy nghĩ, trăn trở bằng một tình yêu nghề nghiệp, hi vọng nó sẽ cùng các bạn đồng nghiệp trao đổi để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang mà Đảng và Nhà nước trao cho nhà giáo.
Kiến nghị: 
+ Đối với Ban giám hiệu:
Nên thường xuyên mở chuyên đề về kèm cặp học sinh yếu môn Toán để giáo viên có cơ hội trình bày những kinh nghiệm bản thân và học hỏi thêm kinh nghiệm của đồng nghiệp khác, góp phần cho bản thân giảng dạy hiệu quả hơn.
Trên đây là “Một số biện pháp kèm cặp học sinh yếu môn Toán lớp 5”. Mà tôi đã áp dụng dạy ở lớp mình đạt kết quả tốt. Nếu có gì chưa hay, chưa đúng mong quý thầy (Cô), Ban giám khảo, Hội đồng chấm Sáng kiến kinh nghiệm đóng góp ý kiến để đề tài sau hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thị Trấn, ngày 20 tháng 04 năm 2010
 Người viết 
	NGÔ HOÀNG MAI 
ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CỦA CƠ SỞ:
.....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
TM.HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN
CHỦ TỊCH

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_kem_cap_hoc_sinh_yeu_mon_toa.doc