Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp rèn kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cho bài tập làm văn tả người

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp rèn kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cho bài tập làm văn tả người

Lớp 5 là lớp cuối cấp Tiểu học và môn Tiếng Việt ở lớp 5 có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá và văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam .Với phân môn Tập đọc rèn kĩ năng nghe, đọc và nói. Phân môn chính tả rèn kĩ năng viết, nghe và đọc. Phân môn Luyện từ và câu rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu ( nói, viết ). Phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói nghe và đọc. Đặc biệt trong phân môn tập làm văn rèn cả 4 kĩ năng : nghe, nói, đọc và viết góp phần mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy lô-gich, tư duy hình tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành nhân cách cho học sinh.

Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, cũng như kết quả khảo sát chất lượng đầu năm ở các năm học, ở khối 5 hơn 50% học sinh chưa viết được một bài văn hoàn chỉnh, chưa nắm được trình tự bài văn miêu tả, một số ít viết đầy đủ cấu trúc bài văn nhưng nghèo vốn từ, thiếu hình ảnh, lại không sử dụng các biện pháp tu từ cho bài văn thêm sinh động, do học sinh chưa biết tạo thói quen quan sát và ghi chép để lập dàn bài, bài văn của các em ngắn không quá 1 trang giấy. Có nhiều em làm một bài văn chỉ vỏn vẹn 6, 7 dòng, lại có học sinh viết bài văn không đặt đấu câu, viết dài dòng, viết cho nhiều mà không có cảm xúc. Vì thế chúng tôi đã chọn đề tài "Rèn kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cho bài văn tả người lớp 5 ”

 

doc 15 trang Người đăng hang30 Lượt xem 398Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp rèn kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cho bài tập làm văn tả người", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẮC BÌNH
TRƯỜNG TIỂU HỌC BÌNH TÂN 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Phương pháp
RÈN KĨ NĂNG TÌM Ý, LẬP DÀN Ý
CHO BÀI TẬP LÀM VĂN TẢ NGƯỜI
Người thực hiện:
NGÔ THỊ CHI UYÊN
NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG
NĂM HỌC : 2010- 2011I.
 Lí do chọn đề tài:
Lớp 5 là lớp cuối cấp Tiểu học và môn Tiếng Việt ở lớp 5 có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá và văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam .Với phân môn Tập đọc rèn kĩ năng nghe, đọc và nói. Phân môn chính tả rèn kĩ năng viết, nghe và đọc. Phân môn Luyện từ và câu rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu ( nói, viết ). Phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói nghe và đọc. Đặc biệt trong phân môn tập làm văn rèn cả 4 kĩ năng : nghe, nói, đọc và viết góp phần mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy lô-gich, tư duy hình tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành nhân cách cho học sinh. 
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, cũng như kết quả khảo sát chất lượng đầu năm ở các năm học, ở khối	 5 hơn 50% học sinh chưa viết được một bài văn hoàn chỉnh, chưa nắm được trình tự bài văn miêu tả, một số ít viết đầy đủ cấu trúc bài văn nhưng nghèo vốn từ, thiếu hình ảnh, lại không sử dụng các biện pháp tu từ cho bài văn thêm sinh động, do học sinh chưa biết tạo thói quen quan sát và ghi chép để lập dàn bài, bài văn của các em ngắn không quá 1 trang giấy. Có nhiều em làm một bài văn chỉ vỏn vẹn 6, 7 dòng, lại có học sinh viết bài văn không đặt đấu câu, viết dài dòng, viết cho nhiều mà không có cảm xúc. Vì thế chúng tôi đã chọn đề tài "Rèn kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cho bài văn tả người lớp 5 ”
II. Những biện pháp thực hiện:
1. Khảo sát thực trạng:
Cụ thể qua bài kiểm tra chất lượng đầu năm như sau: 
Tổng số học sinh tổ 5: 72 học sinh. 
LỚP
SS
ĐIỂM 1-4
ĐIỂM 5 -6
ĐIỂM 7 - 8
ĐIỂM 9 -10
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
5A
25
15
60%
2
8%
4
16%
4
16%
5B
24
16
66.7%
3
12.5%
3
12.5%
2
8.3%
5C
23
14
60.9%
4
17.4%
2
8.6%
3
13.1%
TỔNG
72
45
62.5%
9
12.5%
9
12.5%
9
12.5%
Cụ thể học sinh hay mắc phải những lỗi về sử dụng từ ngữ hình ảnh miêu tả, nghèo vốn từ, ít sử dụng biện pháp tu từ so sánh nhân hoá, viết câu văn chưa hoàn chỉnh, nhiều đoạn văn không có nội dung, chưa có câu mở đoạn
Nguyên nhân chung là do các em chưa xác định được dạng bài, chưa lập được một dàn ý cho bài văn miêu tả. 
 Với đề tài: “Rèn kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cho bài văn tả người lớp 5 ”. Qua đây chúng tôi xin nêu lên những phương pháp, biện pháp tiến hành, chúng tôi mong muốn đóng góp một vài ý kiến nho nhỏ của bản thân trong năm học trước 2008 - 2009, 2009 - 2010 và năm học này 2010 - 2011 mà chúng tôi đã áp dụng có hiệu quả của chính học sinh lớp chúng tôi đang chủ nhiệm ( lớp 5A với 25 học sinh, lớp 5C với 23 học sinh ).
2. Những biện pháp giải quyết vấn đề:
 2.1 Để hoàn chỉnh đề tài này chúng tôi đã nghiên cứu nhiều tài liệu, từ những kiến thức quý báu, những kinh nghiệm từ nhiều năm giảng dạy ở lớp 4,5 đã giúp chúng tôi học được nhiều nội dung kiến thức rất bổ ích cho công tác giảng dạy.
 2.1 Dự giờ rút kinh nghiệm: Học hỏi từ kinh nghiệm của đồng nghiệp trong giảng dạy tại trường, sinh hoạt cụm, trong các tạp chí, sách báo có liên quan mà đặc biệt là kinh nghiệm dạy học của bản thân được thể hiện trong từng tiết dạy, ngày dạy và từng năm dạy. Qua đó chúng tôi đã rút kinh nghiệm cho bản thân mình và rút kinh nghiệm cho tiết dạy. Khắc phục những điểm chưa tốt trong giảng dạy nói chung và trong phân môn Tập làm văn nói riêng.
Qua bài dạy thực tế tại 2 lớp 5A và 5C với sĩ số học sinh là 48 học sinh, trường TH Bình Tân 2
Bài Luyện tập tả người . ( tiết 23,24,25,26,29,30 ).
Kết quả để đánh giá loạt bài này là tiết 31 ( Kiểm tra viết )
Theo trình tự hướng dẫn học sinh làm một bài văn thường theo nhiều giai đoạn sau:
* Giai đoạn định hướng:- Nhận diện đặc điểm loại văn bản ( giúp học sinh nắm chắc cấu tạo bài văn tả người ).
* Giai đoạn lập chương trình: Quan sát đối tượng, tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả.
* Giai đoạn thực hiện chương trình: Xây dựng đoạn văn - Liên kết các đoạn thành bài văn.
* Giai đoạn kiểm tra văn bản mới hoàn thành: Viết được đoạn văn, bài văn theo nội dung chương trình quy định. 
 2.3 Một số phương pháp dạy học Môn Tập làm văn lớp 5 bài “Luyện tập tả người”: 
Cùng với phương pháp giảng dạy đặc trưng của phân môn, qua quá trình giảng dạy thực tế, chúng tôi có kinh nghiệm truyền đạt đến học sinh với những con đường có sáng tạo, có chọn lọc nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất. Trong phân môn tập làm văn bao giờ cũng giúp cho học sinh nhận rõ: 
 - Tính cụ thể sinh động
 - Tính sáng tạo 
 - Tính chân thực
 - Tính hấp dẫn, truyền cảm.
Qua quá trình đọc và tìm hiểu những đặc điểm miêu tả trong đoạn văn .
Cụ thể qua một số tiết sau: 
Tiết 23 : Cấu tạo của bài văn tả người 
Đây là bài đầu tiên để củng cố về cấu tạo bài văn tả người trong loạt bài “Luyện tập tả người”.
Với bài tập này chúng tôi đã phóng to tranh sách giáo khoa cho học sinh quan sát. Giáo viên gọi học sinh nêu lần lượt từng câu hỏi như sách giáo khoa, tổ chức trao đổi theo cặp để trả lời câu hỏi, nhóm khác nhận xét và bổ sung, giáo viên gắn lên bảng câu trả lời đúng ( viết sẵn trong những băng giấy ). Cuối cùng gọi một số học sinh trung bình và yếu nhắc lại nội dung trả lời để giúp học sinh yếu nhớ lâu hơn phần nội dung.
Trong quá trình tìm hiểu bài giáo viên động viên khuyến khích học sinh yếu trả lời câu hỏi.
Sau đó tiếp tục cho học sinh thảo luận nhóm 4 để nêu nhận xét về cấu tạo bài văn tả người, gồm có 3 phần:
Mở bài: Giới thiệu người định tả
Thân bài: 
Tả ngoại hình ( đặc điểm nổi bật về tầm vóc, cách ăn mặc, khuôn mặt, cặp mắt, ).
Tả tính tình, hoạt động ( lời nói, cử chỉ, thói quen, cách cư xử với người khác,).
3. Kết bài: Nêu cảm nghĩ về người được tả.
Phần luyện tập lập dàn ý chi tiết cho bài văn tả người, chúng tôi sử dụng mạng ý nghĩa để học sinh tìm ý rồi từ ý đã tìm để lập dàn ý cho bài văn như sau: 
Mỗi nhóm một phiếu Ao, trên phiếu có hình ảnh một người thân của một bạn trong nhóm.
Các học sinh trong nhóm sẽ lần lượt nói những từ ngữ nhận xét của em về đặc điểm ngoại hình, hoạt động cũng như những nhận xét về tính tình của người trong ảnh rồi đặt thành câu có đầy đủ chủ ngữ vị ngữ.
Gợi ý cho học sinh như:
Hình dáng của người này như thế nào?
Khuôn mặt ra sao? Đôi mắt thế nào? 
Mái tóc như thế nào? Ngắn hay dài, mượt mà hay có đặc điểm gì khác?, 
Đặc điểm hình dáng của người như thế nào? ( cao, thấp, gầy, ốm, ..), dáng đi ra sao?..
Cách ăn mặc thế nào? Nói năng ra sao?
Người đó đang làm gì? Em tưởng tượng hoạt động của họ như thế nào?..
Tình cảm của em với người đó thế nào?
Đặt câu với những từ ngữ đó và sắp xếp các ý đó lại là các em đã lập được một dàn ý tả người hoàn chỉnh.
Giáo viên yêu cầu nhóm trình bày lên bảng , chọn nhóm có ý khá đầy đủ để đọc cho lớp nghe, lớp góp ý thêm cho hoàn chỉnh dàn bài. Giáo viên khuyến khích, động viên học sinh nêu nhận xét để phát triển khả năng nói cho học sinh, giúp học sinh tích cực hơn trong giờ học. nếu còn thời gian
Tiết 24. Luyên tập tả người
Bài tập 1: Đọc đoạn văn (TV5 tập I/122), nêu những đặc điểm tả ngoại hình của bà “ Bà tôi ngồi cạnh tôi chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả hai vai, xoã xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm trên tay, bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa vào mớ tóc dày. 
 Giọng bà trầm bổng, ngân nga như tiếng chuông. Nó khắc sâu vào mớ tóc tôi một cách dễ dàng, và như những đoá hoa, cũng dịu dàng, rực rỡ, đầy nhựa sống. khi bà mỉm cười, hai con người đen sẫm nở ra long lanh dịu hiền khó tả, đôi mắt ánh lên những tia sáng ấm áp tươi vui. Mặc dù trên đôi má ngăm ngăm đã có nhiều nếp nhăn, khuôn mặt của bà tôi hình như vẫn tươi trẻ. Học sinh cùng nhau nói trong nhóm ( mỗi nhóm 4, 5 học sinh ) về đặc điểm ngoại hình của người bà kết hợp quan sát bức tranh sách giáo khoa trang 122 được giáo viên phóng to giao cho mỗi nhóm, học sinh lần lượt nối tiếp nhau nói , cách làm này giúp học sinh yếu nói lên được ý kiến của mình và khắc sâu thêm kiến thức (động viên học sinh yếu trình bày ). Học sinh nhận xét bạn nói đủ các đặc điểm tả ngoại hình chưa. Để rồi học sinh rút ra kết luận: Để viết được một đoạn văn miêu tả đặc điểm ngoại hình người bà thì tác giả đã quan sát rất kĩ và tràn đầy tình yêu thương với bà thì mới viết nên đoạn văn tả bà của mình một cách sinh động như vậy.
 Giáo viên viết một số đoạn văn hay tả đặc điểm ngoại hình của người bà lên giấy khổ lớn ( dán lên góc học tập của mỗi nhóm, để cho học sinh tham khảo thêm ) gọi học sinh đọc cho cả lớp nghe khuyến khích học sinh nói lên cảm nhận của mình. Qua đó giúp học sinh kết luận: Cũng có khi cùng tả về người, nhưng mỗi người lại có những cách thức miêu tả khác nhau.
Ví dụ 1: Bà năm nay đã ngoài tám mươi tuổi. Dáng bà hơi nhỏ nhưng khoẻ mạnh. Nước da đã chuyển sang màu hơi nâu, có điểm những chấm đồi mồi. Mái tóc trắng như cước. Tóc bà rụng nhiều không còn dày nặng như xưa nhưng em vẫn thấy bà vấn tóc trong một vành khăn đen rất gọn gàng. Bàn tay, bàn chân nổi rõ những đường gân xanh dưới lớp da mỏng. Khuôn mặt rất nhiều nếp nhăn đó lại hằn lên thành nếp rất rõ. Đôi mắt bà không còn tinh tường như trước. Khách quen đến nhà, bà nhận ra tiếng trước lúc nhìn rõ người. Tuy thế hàm răng bà vẫn còn chắc, bà vẫn ăn trầu như xưa.
 Ví dụ 2: Bà năm nay đã ngoài sáu mươi, dáng người nhỏ gầy với mái tóc pha sương nay dã bạc màu mây trắng. Lưng bà đã bắt đầu còng xuống, nước da bị nắng cháy sạm, có chỗ đã xuất hiện những chấm đồi mồi. Vì bà đã phải bương chải, tần tảo buôn bán để nuôi mẹ, các cậu,và các dì. Đôi mắt bà không còn tinh tường như xưa nữa, con ngươi đã hơi đùng đục nhưng cái nhìn thì vẫn như thửơ nào hiền hậu yêu thương. Hai gò má của bà nhô lên rám nắng, đôi môi khô và thâm lại theo năm tháng của cuộc đời. Trên khuôn mặt xuất hiện nhiều nét nhăn ở đôi mắt, khoé môi. Mỗi khi cười những nếp nhăn ấy lại hằn sâu hơn. Những lúc buồn, đôi mắt bà đăm chiêu như phản chiếu những ngày lặn lội vất vả vì những miếng cơm, manh áo cho con cái.
 Tiết 25, Bài tập 2/ sgk tập I trang 130: lập dàn ý cho bài văn tả một người mà em thường gặp.
Cách làm như sau: chia lớp làm 4 nhóm.
Cho mỗi nhóm chọn ra một bức ảnh mà nhóm đã chuẩn bị sẵn để tập trung viết dàn ý tả về ngoại hình của người đó. Yêu cầu nhóm làm bài vào phiếu bài tập lớn trên giấyAo, khuyến khích tất cả học sinh trong mỗi nhóm đều phát biểu ý kiến ,áp dụng hình thức nối tiếp nhau nói về đặc điểm của đối tượng trong bức ảnh, tạo cơ hội cho học sinh yếu được phát biểu. Nhóm chọn 1 bạn ghi vào phiếu bài tập. Sau đó các nhóm trình bày phiếu bài tập có đính kèm theo bức ảnh lên trên bảng, đại diện mỗi nhóm đọc bài làm, các nhóm khác nghe đồng thời quan sát bức ảnh để góp ý, bổ sung cho hoàn chỉnh.
Giáo viên sửa chữa bổ sung bài tập của các nhóm và giúp học sinh nhận ra: Miêu tả tất nhiên đòi hỏi phải có tính cụ thể, tính sáng tạo, nhưng cũng rất cần tính chân thực. Miêu tả dù có sáng tạo đến bao nhiêu đi chăng nữa nhưng không được xa rời bản chất của đối tượng miêu tả.
Tiết Luyện tập tả người tiết 26 tuần 13, 
“ Dựa theo dàn ý mà các em đã lập trong bài trước, hãy viết một đoạn văn tả ngoại hình của người đó” 
Chúng tôi tiến hành như sau:
Dùng dàn ý đã lập ở tiết trước gắn ở góc học tập cùng với những đoạn văn mẫu đã sử dụng ở tiết 24 để cho học sinh tham khảo và để hỗ trợ cho học sinh yếu.
Tổ chức cho học sinh làm bài tập cá nhân. Giáo viên theo dõi sát bài làm của những học sinh trung bình và yếu để gợi ý thêm những chi tiết tả cho bài làm đầy đủ ý hơn.
Trước khi làm bài yêu cầu học sinh đọc các gợi ý trong SGK trang 132. Học sinh làm bài xong gọi một số học sinh trình bày ( chọn đối tượng là học sinh khá, giỏi để sửa bài, số bài còn lại giáo viên đem về nhà chấm và nhận xét cụ thể ,chỉ ra những ý hay những ý chưa hay cần sửa chữa thêm cho học sinh có cơ sở điều chỉnh lại bài làm của mình ), sau mỗi bài học sinh đọc lên, cả lớp sẽ nhận xét theo hướng sau:
Đoạn văn đã có câu mở đoạn chưa?
Cách viết đã nêu đủ, đúng và sinh động những đặc điểm tiêu biểu về ngoại hình của nguười em tả chưa? Đã thể hiện tình cảm của em với người đó chưa?
Cách xếp các câu trong đoạn đã hợp lí chưa?
Giáo viên sửa chữa rút ra kết luận chung cho học sinh: 
 Để viết được đoạn văn hay, cụ thể, sinh động, chân thực và sáng tạo. Đòi hỏi người viết dù có miêu tả đối tượng nào ở góc độ nào cũng phải tạo được sự hấp dẫn, truyền cảm đối với người đọc. Muốn vậy khi miêu tả, các em phải thổi vào đó hơi thở của cảm xúc, biến đổi miêu tả trở nên có hồn, nếu không nó đơn thuần chỉ là những dòng chữ khô khan, lạnh lùng, không để lại ấn tượng gì cho người đọc.
 Lưu ý với học sinh: Câu mở đầu đoạn miêu tả cũng khá độc đáo, mới lạ, gây nhiều thiện cảm với người đọc nên cần xác định đúng yêu cầu bài tập để viết câu mở đầu đúng, từ đó sẽ viết nên đoạn văn hoàn chỉnh.
Sau khi đã qua những bước trên, trong tưởng tượng của các em đã phát họa được chân dung của đối tượng miêu tả. Một trong những chứng tỏ điều này là các em đã nhớ được nhiều chi tiết, hình ảnh, biết sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, thổi hồn vào sự vật, hiện tượng một cách sống động gần gũi để các em thể hiện bản thân mình một cách thoải mái, không gò bó và đầy tính sáng tạo. 
Với tiết 29 Luyện tập tả người ( tả hoạt động )
Bài tâp 1: Chúng tôi chọn hình thức thảo luận nhóm ( mỗi nhóm 4, 5 học sinh ) đọc bài văn “ Công nhân sửa đường” 
Xác định các đoạn của bài văn.
Nêu nội dung chính của từng đoạn.
Tìm chi tiết tả hoạt động của bác Tâm trong bài văn.
Ở mỗi nhóm học sinh phải thay phiên nhau phát biểu ý kiến trả lời câu hỏi, làm cho tất cả học sinh đều được nói, không để học sinh yếu đứng ngoài hoạt động nhóm, khuyến khích học sinh giỏi sửa chữa câu trả lời của bạn, không chê bạn, mà nên khuyến khích bạn nói lên ý kiến. Các nhóm ghi phần trả lời vào phiếu bài tập lớn, gắn lên bảng , trình bày và nhóm khác bổ sung , góp ý để hoàn chỉnh yêu cầu bài tập. giáo viên luôn động viên học sinh rèn cách trình bày trôi chảy, mạch lạc.
Bài tập 2: Viết một đoạn văn tả hoạt động của người thân mà em yêu mến.
 Để làm tốt bài tập này chúng tôi đã sử dụng nhiều hình ảnh trực quan minh hoạ sinh động, học sinh chuẩn bị thêm một số hình ảnh chụp về người thân, bạn bè những hình ảnh ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Khuyến khích học sinh nói nhiều về người thân trong hình ảnh. Tạo cơ hội cho học sinh được nhận xét, phát biểu nói lên được ý kiến của mình từ đó học sinh viết đoạn văn tả người đầy đủ và chi tiết. Chúng tôi cho học sinh làm bài cá nhân, giáo viên quan sát để kịp thời giúp đỡ thêm cho những học sinh còn lúng túng bằng cách đặt những câu hỏi gợi ý thêm.
Tiết 30: Luyện tập tả người ( tả hoạt động )
 Lập dàn ý cho bài văn tả hoạt động của một bạn nhỏ hoặc một em bé ở tuổi tập đi, tập nói. Chúng tôi thống nhất chọn lập dàn ý tả hoạt động của một em bé. Với hình thức hoạt động nhóm 6, học sinh có điều kiện phát biểu và nhận về những ý hay từ nhiều bạn. 
 Để làm tốt bài tập này, chúng tôi dặn học sinh mang theo đến lớp bức ảnh của những em bé là em, là cháu của mình rồi gắn hết các bức ảnh lên bảng phụ của nhóm mình, sau đó nhóm sẽ quan sát và chọn ra một bức ảnh để làm đối tượng lập dàn ý miêu tả hoạt động. Đồng thời chúng tôi cũng sưu tầm giới thiệu thêm cho học sinh những hình ảnh về những hoạt động đáng yêu , ngộ nghĩnh của em bé để kích thích sự sáng tạo khi học sinh làm bài, đồng thời tạo sự hưng phấn cho học sinh trong giờ học. Trong quá trình học sinh hoạt động nhóm giáo viên quan sát, góp ý thêm cho nhóm. Kết quả học sinh đã làm rất tốt dàn ý bài văn.
 Trước giờ học tập làm văn , nói riêng về bài văn tả người chúng tôi thường dặn dò học sinh chọn những tấm hình về ông bà, cha mẹ, anh chị, em bé để rồi kể cho bạn bè, kể cho cô giáo nghe về hình dáng, tính tình của họ, kể về những việc làm của họ, cách làm này đã giúp học sinh đọng lại ấn tượng , những hình ảnh đẹp để làm bài văn sau này. Những lúc trò chuyện trao đổi như thế đã giúp cho học sinh có nhiều vốn từ ngữ hình ảnh hơn để học sinh lập dàn ý tốt hơn từ đó viết đoạn văn hoàn chỉnh hơn trước.
Tiết 31 Tả người ( Kiểm tra viết )
Học sinh chọn một trong các đề sau:
Tả một em bé đang tuổi tập đi, tập nói.
Tả một người thân ( ông bà, cha, mẹ, anh ,em.) của em.
Tả một bạn học của em.
Tả một người lao động ( công nhân, nông dân, thợ thủ công, bác sĩ, y tá, cô giáo, thầy giáo,) đang làm việc.
Sử dụng những bức ảnh học sinh đã mang đến lớp học ở tiết 29, 30 gắn lên bảng phụ treo ở các góc học tập để học sinh quan sát. Dùng dàn ý chi tiết đã lập ở tiết 25 và 30 để hỗ trợ cho học sinh yếu.
Dành cho học sinh 4 - 6 phút để học sinh nói về đối tượng sẽ tả và giải đáp những thắc mắc của học sinh ( nếu có ). Sau đó dành thời gian cho học sinh làm bài ( hoạt động cá nhân , giáo viên theo dõi học sinh yếu và gợi ý thêm nếu cần thiết). 
Thu tất cả số vở của học sinh để chấm, giáo viên luôn nhận xét một cách chân tình, sửa chữa cho các em cả về lỗi từ ngữ, lỗi câu và lỗi chính tả để khi tiết trả bài viết học sinh nhận ra những hạn chế của mình và hoàn chỉnh lại bài văn tốt hơn. 
III . Kết quả giảng dạy. 
 Qua một quá trình lao động, tìm tòi sáng tạo để thực hiện từng giờ phân môn tập làm văn một cách bài bản, có kế hoạch. Chúng tôi nhận được một số kết quả như sau. 
Chúng tôi nhận thấy ngoài nhiệm vụ chính là biết làm một bài văn, học sinh được chủ động, tự do thể hiện cái “tôi” của mình một cách rõ ràng bộc bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn. Dạy Tập làm văn là dạy các em tập suy nghĩ riêng, tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con người mình qua từng bài học cụ thể.
Qua quá trình giảng dạy theo quy trình mới này, chúng tôi nhận được số kết quả như sau:
 Tổng số học sinh tổ 5: 72 học sinh. 
LỚP
SS
ĐIỂM 1-4
ĐIỂM 5 -6
ĐIỂM 7 - 8
ĐIỂM 9 -10
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
5A
25
2
8%
6
24%
11
44%
6
24%
5B
24
3
12.5%
10
41.7%
8
33.3%
3
12.5%
5C
23
2
8.7%
4
17.4%
12
52.2%
5
21.7%
TỔNG
72
7
9.7%
20
27.8%
31
43.1%
14
29.4%
 Đây là kết qua rất khả quan qua đánh giá chúng tôi thấy em nào cũng làm bài đạt yêu cầu, chỉ có 7 em làm bài chưa đạt do sai vài lỗi chính tả và ý còn hạn chế, câu chưa đầy đủ về ngữ pháp.
Tuy nhiên học sinh cả khối khá nhiều học sinh yếu Tập làm văn đầu năm học vì thế ở phần luyện tập thực hành và sửa sai còn hạn chế. 
Một số em còn rụt rè, góp phần xây dựng bài chưa tích cực lắm.
IV. Hiệu quả phổ biến sử dụng:
 Trong thời gian áp dụng đề tài trên, chúng tôi nhận thấy học sinh của lớp có nhiều tiến bộ, làm được bài văn hoàn chỉnh hơn, nội dung phong phú hơn. Trong sinh hoạt tổ chúng tôi đưa ra đề tài và thành viên trong tổ thống nhất áp dụng và có hiệu quả cao. 
V. Bài học kinh nghiệm:
 Để dạy tốt một tiết tập làm văn nói chung, văn miêu tả nói riêng chúng ta cần sử dụng nhiều hình ảnh trực quan sinh động, hình ảnh gần gũi với thực tế, và quan trọng là hướng cho học sinh cách quan sát, ghi chép, tạo cơ hội cho học sinh được giao lưu, được phát biểu ý kiến, tạo cho học sinh không khí học tập thoải mái, gần gũi giữa thầy và trò, 
 Bắc Bình ngày 29/1/2011
 Người viết
 Ngô Thị Chi Uyên - Nguyễn Thị Ánh Hồng
IV. Ý kiến của hội đồng khoa học trường:

Tài liệu đính kèm:

  • docPhuong phap ren ky nang tim y lap dan y cho bai vanta nguoi.doc