Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam - Chuyên đề 9: Những cảm nghĩ về nền văn hoá, về đất nước và con người Lào

Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam - Chuyên đề 9: Những cảm nghĩ về nền văn hoá, về đất nước và con người Lào

Chuyên đề 9

NHỮNG CẢM NGHĨ VỀ NỀN VĂN HOÁ,

VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI LÀO

---------

1. Đất nước và con người Lào

Nước Lào có tổng diện tích 236.800 km2, có đường biên giới giáp 5 nước: Phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây bắc giáp My-an-ma, phía tây giáp Thái Lan, phía nam giáp Căm-Pu-Chia và phía đông giáp Việt Nam. Lào có 17 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, trong đó có 10 tỉnh chung đường biên giới với Việt Nam với chiều dài 2067 km (Riêng đường biên giới chung với Quảng Trị là 206 km, gồm 2 tỉnh Savằnnkhet và Salavan).

Rừng núi chiếm 3/4 diện tích, có nhiều lâm sản, động vật và khoáng sản quý hiếm. Khí hậu được chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Có dòng Mê-công chảy từ bắc xuống nam dài 1865 km. Có núi Phu-bia cao 2820m so với mặt nước biển, là đỉnh cao nhất nước Lào. Có cố đô Luông-pha-ra-băng là di sản văn hoá thế giới, hàng năm thu hút rất nhiều khách du lịch.

Lịch sử nước Lào trước thế kỷ XIV gắn liền với sự thống trị của Vương quốc Nam Chiếu. Vào thế kỷ thứ XIV, vua Phà Ngừm lên ngôi đổi tên nước thành Lạn Xạng (Triệu Voi). Trong nhiều thập kỷ tiếp theo, Lào nhiều lần phải chống các cuộc xâm lược của Miến Điện và Xiêm. Đến thế kỷ XVIII, Thái Lan giành quyền kiểm soát trên một số tiểu vương quốc còn lại. Các lãnh thổ này nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Pháp trong thế kỷ XIX và bị sáp nhập vào Liên bang Đông Dương năm 1893. Trong thế chiến thứ 2, Pháp bị Nhật thay chân ở Đông Dương. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng minh ngày 12 tháng 10 năm 1945, Lào tuyên bố độc lập. Đầu năm 1946, Pháp quay trở lại xâm lược Lào. Năm 1949, quốc gia này nằm dưới sự lãnh đạo của Vua SisavangVong và mang tên Vương quốc Lào. Tháng 7 năm 1954, Pháp ký hiệp định Giơnevơ công nhận nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Lào.

Từ năm 1955 đến năm 1975, Vương quốc Lào lệ thuộc mạnh mẽ vào Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống Cộng sản tại Đông Dương, tình hình đó đã lôi kéo Lào vào cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, là yếu tố dẫn đến nội chiến Lào và xảy ra một vài cuộc đảo chính.

 

doc 7 trang Người đăng hang30 Lượt xem 572Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam - Chuyên đề 9: Những cảm nghĩ về nền văn hoá, về đất nước và con người Lào", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề 9
NHỮNG CẢM NGHĨ VỀ NỀN VĂN HOÁ,
VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI LÀO
---------
1. Đất nước và con người Lào
Nước Lào có tổng diện tích 236.800 km2, có đường biên giới giáp 5 nước: Phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây bắc giáp My-an-ma, phía tây giáp Thái Lan, phía nam giáp Căm-Pu-Chia và phía đông giáp Việt Nam. Lào có 17 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, trong đó có 10 tỉnh chung đường biên giới với Việt Nam với chiều dài 2067 km (Riêng đường biên giới chung với Quảng Trị là 206 km, gồm 2 tỉnh Savằnnkhet và Salavan).
Rừng núi chiếm 3/4 diện tích, có nhiều lâm sản, động vật và khoáng sản quý hiếm. Khí hậu được chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Có dòng Mê-công chảy từ bắc xuống nam dài 1865 km. Có núi Phu-bia cao 2820m so với mặt nước biển, là đỉnh cao nhất nước Lào. Có cố đô Luông-pha-ra-băng là di sản văn hoá thế giới, hàng năm thu hút rất nhiều khách du lịch. 
Lịch sử nước Lào trước thế kỷ XIV gắn liền với sự thống trị của Vương quốc Nam Chiếu. Vào thế kỷ thứ XIV, vua Phà Ngừm lên ngôi đổi tên nước thành Lạn Xạng (Triệu Voi). Trong nhiều thập kỷ tiếp theo, Lào nhiều lần phải chống các cuộc xâm lược của Miến Điện và Xiêm. Đến thế kỷ XVIII, Thái Lan giành quyền kiểm soát trên một số tiểu vương quốc còn lại. Các lãnh thổ này nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Pháp trong thế kỷ XIX và bị sáp nhập vào Liên bang Đông Dương năm 1893. Trong thế chiến thứ 2, Pháp bị Nhật thay chân ở Đông Dương. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng minh ngày 12 tháng 10 năm 1945, Lào tuyên bố độc lập. Đầu năm 1946, Pháp quay trở lại xâm lược Lào. Năm 1949, quốc gia này nằm dưới sự lãnh đạo của Vua SisavangVong và mang tên Vương quốc Lào. Tháng 7 năm 1954, Pháp ký hiệp định Giơnevơ công nhận nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Lào.
Từ năm 1955 đến năm 1975, Vương quốc Lào lệ thuộc mạnh mẽ vào Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống Cộng sản tại Đông Dương, tình hình đó đã lôi kéo Lào vào cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, là yếu tố dẫn đến nội chiến Lào và xảy ra một vài cuộc đảo chính.
Thi hành Nghị Quyết Đại hội II của Đảng Cộng sản Đông Dương (02/1951), ngày 22/3/1955, Đại hội thành lập Đảng Nhân Dân Lào khai mạc tại một khu rừng thuộc tỉnh Hưa phen (Sầm Nưa). Đảng Nhân Dân Lào lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động, xác định kẻ thù của cách mạng Lào là đế quốc Mỹ, phái thực dân Pháp phá hoại hiệp định đình chiến và bè lũ tay sai của chúng. Đảng đề ra nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn mới là: “đoàn kết, lãnh đạo toàn dân, phấn đấu hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực hiện một nước Lào hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng”.
Từ năm 1968, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam đã hỗ trợ các đơn vị tham chiến cùng quân Pathét chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Sức mạnh tổng hợp của cách mạng Lào trong khối liên minh đoàn kết chiến đấu với các nước Đông Dương đã dồn đế quốc Mỹ và tay sai ở Lào vào thế bị động, khốn quẩn chưa từng thấy. Mỹ thấy không thể thắng được Pathét Lào bằng sức mạnh quân sự do đó phải chấp nhận phương sách “hòa hoãn” với các lực lượng cách mạng Lào.
Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân các bộ tộc Lào đang ở giai đoạn bước ngoặt, Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Nhân Dân Lào lần thứ II được khai mạc từ ngày 03/02/1972 - 06/02/1972 tại ViêngXay (Sầm Nưa) với 125 đại biểu, thay mặt cho hàng vạn đảng viên của Đảng đến dự Đại hội. Đại hội thông qua bản sửa đổi Điều lệ Đảng và đổi tên Đảng nhân dân Lào thành Đảng nhân dân cách mạng Lào. Đại hội bầu đồng chí Cayxỏn phômvihẳn làm Tổng Bí thư Đảng nhân dân cách mạng Lào.
Năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, phong trào cộng sản Pathét Lào đã lật đổ chính quyền hoàng tộc. Ngày 29/11/1975, nhà vua Lào phải tuyên bố thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ Lào. Ngày 02/12/1975, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Lào quyết định xóa bỏ chế độ quân chủ, thành lập nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Đồng chí Suphanuvong được cử giữ chức Chủ tịch Nước, đồng chí Cayxỏnphômvihẳn Tổng Bí Thư được cử làm Thủ tướng. Từ đó, ngày 02 tháng 12 được lấy làm ngày Quốc khánh của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. 
Sau hơn 30 năm ròng rã đấu tranh, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân Lào đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn. Việc khai sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (02/12/1975) đã kết thúc vẻ vang cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các bộ tộc Lào kéo dài suốt 197 năm kể từ khi phong kiến Xiêm đặt ách thống trị Lào vào năm 1778. Đây là một thắng lợi oanh liệt nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của nhân dân các bộ tộc Lào. Với thắng lợi này, nhân dân các bộ tộc Lào bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, hòa bình và tiến bộ.
Lào có 17 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, thủ đô là Viêng Chăn, các thành phố lớn như: Luống Phả Bang (là kinh đô đầu tiên của Lào), Xả Vằn Na Khệt, Pạc Xế Dân số của Lào hiện nay có khoảng 7 triệu người, bao gồm ba bộ tộc chính là Lào Lùm, Lào Thơng và Lào Sủng, ngoài ra còn có khoảng 2-5% là người Việt, Người Hoa, người Thái cùng chung sống, tập trung ở các thành phố.
2. Nền văn hoá Lào: 
Nước Lào, trước đây còn gọi là Vương quốc Lạn Xạng, “Lạn” tiếng Lào là triệu, “xạng” là voi. Lạn Xạng có nghĩa là “Triệu Voi”. Được mệnh danh là “Miền đất Triệu voi”- Lào nằm ở nơi giao hội của hai nền văn minh vĩ đại và hùng mạnh nhất châu Á là Ấn Độ và Trung Hoa, người dân Lào đã hấp thụ những phong tục và tín ngưỡng của hai nền văn minh ấy để hình thành nên một nền văn hóa đặc sắc của riêng mình hết sức độc đáo. 
Nền văn hóa Lào là nền văn hóa Phật giáo. Đạo Phật đã ăn sâu vào tư tưởng của người Lào, ảnh hưởng này được phản ánh trong ngôn ngữ và nghệ thuật, tạo nên một dân tộc Lào rất riêng.
Văn hóa Lào là xứ sở của Phật giáo tiểu thừa, 90% dân số theo đạo Phật. Đạo Phật được truyền vào xứ Lào trong triều vua Dvaravati vào thế kỷ thứ 7, và từ thế kỷ 14 Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Người dân Lào đã thấm nhuần trong mình những lời Phật dạy, một mực kính trọng các bậc tăng ni, những vị sư sãi trong chùa. Với dân số khoảng 7 triệu người và có tới 1.400 ngôi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa so với dân cao nhất thế giới, chùa chiền, đền tháp là nơi gắn bó cả đời với người Lào, cũng là chất keo cộng đồng gắn kết các bộ tộc Lào lại với nhau- chất keo văn hoá Phật giáo. Chùa chiền với những mái ngói uốn cong nhiều dáng vẻ còn là biểu hiện sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và thẩm mỹ của người Lào. Lễ hội gắn với chùa chiền, chùa chiền gắn liền với làng bản, là nơi để mọi người gặp gỡ, vui chơi, ăn diện và múa hát. Lễ hội cũng là biểu hiện của văn hoá tâm linh phật giáo từ, bi, hỉ, xả đã ăn sâu vào máu thịt bao đời người dân các bộ tộc Lào, góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Lào trường tồn, lung linh mà quyến rũ. 
Lào là đất nước của bốn mùa lễ hội. Cũng như các nước trong khu vực Đông Nam Á, lễ hội tại đất nước Lào cũng chia làm 2 phần, phần lễ và phần hội. Phần lễ là phần nghi thức do chính con người đặt ra để giao cảm với thần linh và phần hội chủ yếu là vui chơi, giải trí. Mỗi năm có 4 lần tết: Tết Dương Lịch, Tết Nguyên Đán (như ở một số nước Á Đông), Tết Lào (Bun PiMay vào tháng 4) và Tết H'mong (tháng 12). Ngoài ra còn các lễ hội: Bun PhaVet ( Phật hóa thân) vào tháng 1 ; Bun VisakhaPuya (Phật Đản) vào tháng 4; Bun BangPhay (pháo thăng thiên) vào tháng 5; Bun Khao PhanSa (mùa chay) vào tháng 7; Bun Khao Padapdin (tưởng nhớ người đã mất) vào tháng 9; Bun Suanghua (đua thuyền) vào tháng 10. Lễ hội ở Lào hay còn được gọi là Bun, nghĩa là phước, làm Bun nghĩa là làm phước để được phước. 
Lào có tết cổ truyền Bunpimay (có nghĩa là mừng năm mới), hay còn gọi là Tết té nước diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 4 hàng năm. Vì đạo phật ở Lào có tự lâu đời phát triển mạnh trở thành quốc đạo, các nhà chiêm tinh học tính ngày tháng theo phật lịch, nên năm mới hàng năm bắt đầu vào tháng tư dương lịch. Người Lào gọi tết là vui tết chứ không gọi là ăn tết, tất cả các cuộc vui được chuẩn bị theo truyền thống tôn giáo, phù hợp với phong tục tập quán của người Lào. Trong những ngày lễ hội vui chơi là chủ yếu, tuy nhiên họ cũng chuẩn bị đồ ăn, thức uống thịnh trọng hơn ngày thường, đặc biệt là không thể thiếu rượu. Ngày tết từ sáng sớm dân làng diện những bộ đồ đẹp nhất, nhất là chàng trai, cô gái với đủ áo váy màu sắc sặc sỡ, tập trung tại sân chùa để dự lễ tắm phật. Xong lễ tắm phật mọi nhà làm lễ buộc cổ chỉ tay cho những người thân trong nhà, tục lễ này gọi là ( pục khén ) hay còn gọi là (xù khoắn) lễ gọi hồn vía. Nhân dịp đầu năm con cháu chúc ông bà, cha mẹ, bạn bè, người thân gặp may mắn hạnh phúc. Cũng vì lẽ đó, lễ mừng năm mới còn gọi lễ té nước (gọi là Bun hốt nậm), trong những ngày lễ, thanh niên nam, nữ thường té nước cho nhau vừa chúc mừng nhưng cũng vừa để tỏ tình. Bun hốt nậm còn có ý nghĩa về chuyện chuyển năm và cũng là chuyển mùa từ mùa khô sang mùa mưa; sau những tháng ngày hanh khô, những cơn mưa rào ập đến mang nước mát tưới cho núi rừng, cỏ cây, ruộng đồng, màu xanh tươi mát của chồi non vụt nhú lên báo hiệu một mùa làm ruộng, rẫy mới. Người dân té nước để cầu may, cầu bình yên cho cả năm, cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt. Trong những ngày này, mọi người thăm viếng chúc tụng lẫn nhau, ăn uống vui chơi, múa hát cầu mong quốc thái dân an, nhà nhà hạnh phúc, người người ấm no Với người Lào, những phong tục trong lễ hội Bunpimay mang ý nghĩa đem lại sự mát mẻ, phồn vinh cho vạn vật, ấm no hạnh phúc cho cuộc sống, là dịp để nuôi dưỡng và hun đúc nghệ thuật dân tộc.
Âm nhạc của Lào ảnh hưởng lớn của các nhạc cụ dân tộc như khèn (một dạng của ống tre. Một dàn nhạc điển hình bao gồm người thổi khèn cùng với biểu diễn múa bởi nghệ sĩ khác. Múa Lăm vông (Lam saravane) là thể loại phổ biến nhất của âm nhạc Lào, những người Lào ở Thái Lan đã phát triển và phổ biến rộng rãi trên thế giới gọi là mor lam sing.. Khi được mời cùng múa Lăm Vông với người khác giới, hai người đi song song nhưng không va chạm vào người phụ nữ. 
Chăm pa (hoa đại) là một loài hoa biểu tượng của đất nước và con người Lào. Mang đậm một bản sắc riêng biệt, hương sắc ngào ngạt của hoa chăm pa phản ảnh rõ tính cách, tâm hồn của dân tộc Lào, với những con người có một vẻ đẹp giản dị, chan hoà, gìn giữ và chất phác, thật thà. Ngoài cái đẹp bản sắc riêng của dân tộc Lào, hoa chăm pa có 5 cánh hoa xoè ra thể hiện sự đoàn kết muốn hợp tác vươn tới 5 nước láng giềng với thể ứng xử cởi mở, cân bằng, mềm mại, hoà đồng bên ngoài, thống nhất ở bên trong. Ở Lào hoa chăm pa có nhiều loại và mọc khắp nơi. Người dân Lào thường trồng hoa chăm pa để tô điểm cho vẻ đẹp thanh bình êm ả của đất nước và sống động hơn trong không khí hội hè. Đến với đất nước Lào (Triệu Voi) là đến thăm đất nước hoa chăm pa xinh đẹp. Hạnh phúc biết bao khi được các cô gái choàng lên cổ vòng hoa chăm pa, buộc vào cổ tay vòng chỉ cầu mong phúc lành, đam mê không muốn dứt trong những điệu múa Lăm vông dưới bóng cây chăm pa.
Văn hoá Lào như một dòng chảy ngọt ngào đời này qua đời khác, hun đúc nên tâm hồn, cốt cách, và văn hoá của người Lào. Qua thời gian năm tháng được kết tinh ở những phong tục văn hoá đẹp đẽ như Tết Té nước để giải trừ mọi lo âu phiền muộn; Buộc chỉ cổ tay chúc phúc người thân, chúc phúc khách quý, bạn bè 
Các nước đạo Phật phát triển trở thành quốc giáo thì phong tục tập quán cơ bản giống nhau. Con người Lào lịch sự, lễ phép, không thoa đầu mọi người kể cả trẻ em, không bá vai, bá cổ. Người Lào gặp nhau, người dưới chắp tay chào người trên; trẻ em chắp tay chào người lớn, không bao giờ họ lớn tiếng cãi nhau. Khi chào hoặc khi đáp từ kể cả thành tiếng hoặc không thành tiếng người ta thường dùng các cử chỉ như: thông thường hai tay chắp lại với nhau giơ lên ngang ngực, đầu hơi cúi xuống, nếu tỏ ý kính trọng đối với người lớn tuổi hoặc cấp trên thì giơ ngang mặt. 
Có cuộc sống yên ả, thanh bình và thơ mộng, người Lào thật thà, chất phác, hiền hoà, dễ mến, trọng danh dự. Tính cách ấy biểu hiện rõ trên ánh mắt, nụ cười, cử chỉ và dáng điệu của mỗi con người. Trong gia đình họ chung sống hoà thuận, và đặc biệt họ rất quý trọng tình bạn, quý trọng chữ tín. Chuyện vợ chồng ly hôn cũng rất ít khi xảy ra, vì nó bắt nguồn từ những phong tục thuần hậu truyền đời. Nếu như với người phụ nữ Việt Nam là “tam tòng tứ đức”, thì người phụ nữ Lào là “hươn xảm nậm xi” (ba nhà bốn nước) được giáo dục từ hồi còn tấm bé. Đây cũng là nét văn hoá, phong tục đặc sắc của người Lào.
Người Lào rất gần gũi và hầu như không gặp trở ngại gì lớn trong văn hóa và giao tiếp. Sự hài hòa giữa lòng nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc trong triết lý nhân sinh người Lào. Ngạn ngữ Lào có câu: “Nói hợp lòng thì xin ăn cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì dẫu xin mua cũng chẳng bán” (Vầu thực khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu bò thực khọ khỏ xừ cò bò khải). Người Việt còn lưu lại trong thư tịch cổ: “người Lào thuần hậu chất phác”, trong giao dịch buôn bán thì “họ vui lòng đổi chác”. Đó cũng là tình cảm bình dị, chân thành mà người dân nước Việt giành cho người người dân láng giềng của mình.
Phong tục ăn mặc ở Lào, phụ nữ phải mặc “Phaa sin”, một kiểu váy dài có các mảng hoa văn đặc trưng, mặc dù nhóm các bộ tộc thường có trang phục riêng của họ.  Đàn ông thì mặc “phaa biang sash” vào những dịp lễ hội. Ngày nay phụ nữ thường mặc trang phục kiểu phương Tây, nhưng “phaa sin” vẫn là trang phục bắt buộc.
Đất nước Lào có nhiều công trình lịch sử văn hoá, có thiên nhiên tươi đẹp, có nhiều cảnh quan kỳ thú như Thạt Luổng (Viêng Chăn), cố đô Luông Phra-băng (di sản văn hoá thế giới), chùa Vạtxixun (Luông pha băng), Núi phú Xỉ, Cánh Đồng Chum huyền bí (Xiêng Khoảng), thác Khôn, thác Quang Xi, Hang Thẳm tình.v.v. 
Là một vùng đất có lịch sử lâu đời nhưng trải qua các cuộc chiến tranh với người Miến Điện, Trung Hoa và đặc biệt với đế quốc Xiêm nên nhiều di tích lịch sử, văn hóa, tôn giáo bị tàn phá. Nhiều di tích hiện nay đã được xây dựng lại trong cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 còn nét cổ kính, uy nghi. 
Viên Chăn - tên gọi của thành phố bắt nguồn từ tiếng Pali, có nghĩa là “thành phố của gỗ đàn hương” – một loại cây quý trong kinh điển Ấn Độ. Theo tiếng Lào - Wiang Jan có nghĩa là “thành phố của mặt trăng”. Thành phố nằm dọc theo bờ sông Mekong, có lẽ vì thế mà có một môi trường sống rất dễ chịu, thoáng đãng. Khi người Pháp cai trị, họ quy hoạch hệ thống đường, xây dựng các biệt thự, công trình mang phong cách Pháp. Con đường lớn nhất xuyên giữa lòng thành phố là Đại lộ Lan Xang (Lan Xang có nghĩa là Triệu voi) - được ví như Đại lộ Champs Elysées ở Paris (Pháp). 
Cuối Đại lộ Lan Xang là Patuxay Gate- biểu tượng chiến thắng của người Lào được xây dựng vào năm 1962. Công trình này dùng để vinh danh những chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào. Patuxay Gate có nhiều tên gọi khác: “đường băng thẳng đứng” hay “Champs Elysées của phương Đông”... Patuxay Gate trước đây được biết đến là tượng đài Anousavary. Hình thức bên ngoài Patuxay Gate có phần nào đó giống với khải hoàn môn ở Paris, tuy nhiên, vẫn nở rộ nét đặc sắc của nhân dân Lào: những hình tượng trang trí Kinari – nửa người phụ nữ và nửa chim, những phù điêu mô tả trường ca Rama và các tháp mang đậm phong cách của người Lào. Từ trên cao, Thủ đô Viêng Chăn hiện ra trước mắt du khách không gian bao la và trải rộng vươn ra mọi hướng. Patuxay Gate lại kết hợp hài hòa trong không gian quảng trường rộng lớn. Mỗi khi chiều về là lúc người dân Viêng Chăn cùng du khách lại tụ tập về đây vui chơi thư giãn. 
Tại Viêng Chăn, có rất nhiều chợ đường phố. Thức ăn của Lào rất đặc biệt và ngon, thủ công mỹ nghệ truyền thống như: dệt-lụa, đồ trang sức và giỏ xách phong phú. Ngoài ra có Công viên Phật lưu giữ bộ sưu tập bê tông ngoài trời của nghệ thuật điêu khắc Phật giáo và Hindu, Hồ Nam Ngeun, làng văn hóa Vangxang... 
Ở Viêng Chăn có nhiều ngôi chùa rất lớn và nổi tiếng như Wat Sisaket, Ong Teu, That Luang... Chùa Wat Sisaket lưu giữ đến 6.840 tượng Phật lớn nhỏ rất quý hiếm và là ngôi chùa có nhiều tượng Phật cổ nhất Lào. Tượng ở đây được làm chủ yếu bằng đồng, một số làm từ các vật liệu khác như gỗ quý, bạc hoặc mạ vàng. Đối diện với chùa Wat Sisaket là chùa Prakeo, nét độc đáo ở đây là pho tượng quý hiếm Phật Phra Bang (đúc tại Sri Lanka, bằng vàng) được vua Fa Ngum mang từ Angkor về Viêng Chăn trong thế kỷ 14. 
Điểm nổi bật nhất là chùa Heavy Buddha được xây dựng từ thế kỷ thứ I, hiện là trường học của sư sãi, các nhà sư từ nhiều miền đất nước của Lào được truyền dạy kinh Phật dưới sự hướng dẫn của các sư trụ trì thâm niên. 
Tháp That Luang (Thạt Luổng)- di sản văn hóa thế giới, biểu tượng văn hóa Phật giáo và hiện được coi là biểu tượng của nước Lào. That Luang được xây dựng năm 1566 trên nền phế tích của một ngôi đền Khmer thế kỷ XIII và theo truyền thuyết là có chứa một sợi tóc của Đức Phật được một nhà truyền giáo mang đến từ Ấn Độ. Sau đó, tháp Thạt Luổng bị tàn phá và đổ nát sau cuộc xâm lược của người Thái ở thế kỷ XIX. Năm 1930, tháp được khôi phục lại theo kiến trúc nguyên bản với độ cao 45m. Bức tượng ngay phía trước tháp là vua Setthathilath, người đã cho xây dựng tháp đầu tiên. Ngày xưa, bốn mặt vòng quanh That Luang được bao bọc bởi các ngôi chùa nhưng hiện tại chỉ còn tồn tại chùa Luang Nua và Luang Tai. Hằng năm, ở đây, vào trung tuần tháng 11 diễn ra lễ hội cấp quốc gia là Lễ hội That Luang. Tháp That Luang được coi là rất linh thiêng nên có nhiều người đến đây cầu khấn các nguyện vọng. 
Luông Pra Băng hay Luông Pha Băng, nghĩa là Phật Vàng Lớn. Luông Pha-băng là Thủ đô của Vương triều Lan Xang thế kỷ thứ 14, thời kỳ hưng thịnh của Lào dưới triều Vua Xê-tha-thi-lát, nhưng từ năm 1545 chiến tranh xảy ra liên miên, Vua Xê-tha-thi-lát quyết định rời kinh đô đến Viêng Chăn. Trước năm 1975, nó vẫn là thủ đô hoàng gia, trung tâm của Vương quốc Lào. Ngày nay, nó là tỉnh lỵ của tỉnh Luông Pra Băng. Luông Pha Băng có 129 điểm du lịch, với nhiều di tích lịch sử, tôn giáo, chùa và làng cổ kính với những kiến trúc và chạm trổ độc đáo, có cố cung hoàng gia, thác nước Tát Khoang-xi, được ca ngợi như "viên ngọc xanh giữa rừng nhiệt đới". Luông Pha-băng đã được UNESCO công nhận là di tích lịch sử và văn hóa của thế giới năm 1995. 
Cánh đồng chum - một di tích khảo cổ học nằm ở tỉnh Xiêng Khoảng có khoảng 2.000 cái chum lớn nhỏ ở 52 địa điểm nằm rải rác tại chân dãy núi Trường Sơn. Kích thước của các chum đá dao động khoảng từ 0,5 đến 3m, trọng lượng lên đến 6000 kg và có niên đại khoảng 1500 đến 2000 năm. 
Các câu chuyện huyền thoại của người Lào cho rằng có những người khổng lồ đã từng định cư ở khu vực này. Theo một truyền thuyết khác, một vị vua cổ đại tên là Khun Cheung - đã tiến hành cuộc chiến chống lại kẻ thù thành công. Ông đã cho tạo lập cánh đồng chum để ủ lên men và chứa số lượng lớn rượu gạo lao lao để ăn mừng chiến thắng. Cánh đồng chum mang trong mình những bí ẩn của một nền văn hoá, một thế giới tâm linh mà cho đến bây giờ vẫn chưa rõ về xuất xứ
 Đất nước, con người và nền văn hoá Lào quả là đang mang trong mình nguốn sức mạnh vô biên, ẩn chứa biết bao điều kỳ diệu, đó chính là tiềm năng và là nguồn nội lực to lớn. Tiềm năng và nguồn lực to lớn đó đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào trân trọng, giữ gìn, bồi đắp và phát huy trong thời đại mới, thời đại hội nhập và phát triển.
---------------------

Tài liệu đính kèm:

  • docCHUYEN ĐE 9 VIET- LAO.doc