Một số biện pháp rèn kỹ năng giảI các dạng toán về phép đo đại
lợng trong Toán 5
A- Đặt vấn đề
- Toán 5 có vị trí đặc biệt quan trọng trong chơng trình toán Tiểu học. Nếu
coi Toán 4 là sự mở đầu thì Toán 5 là sự phát triển tiếp theo và ở mức cao hơn, hoàn
thiện hơn cả giai đoạn dạy học các nội dung cơ bản nhng ở mức sâu hơn, trừu
tợng và khái quát hơn, tờng minh hơn so với giai đoạn các lớp 1, 2, 3. Do đó, cơ
hội hình thành và phát triển các năng lực t duy, trí tởng tợng không gian, khả
năng diễn đạt( bằng ngôn ngữ nói và viết ở dạng khái quát và trừu tợng) cho HS sẽ
nhiều hơn, phong phú hơn và vững chắc hơn so với các lớp trớc. Nh vậy, Toán 5
sẽ giúp HS đạt đợc những mục tiêu dạy học toán không chỉ ở Toán 5 mà toàn cấp
Tiểu học.
- Trong các tuyến kiến thức của môn Toán thì “ Đại lợng và đo đại lợng”
là tuyến kiến thức khó dạy vì tri thức khoa học về đại lợng và đại lợng và tri thức
môn học đợc trình bày có khoảng cách.
Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 1 Một số biện pháp rèn kỹ năng giảI các dạng toán về phép đo đại lượng trong Toán 5 A- Đặt vấn đề - Toán 5 có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình toán Tiểu học. Nếu coi Toán 4 là sự mở đầu thì Toán 5 là sự phát triển tiếp theo và ở mức cao hơn, hoàn thiện hơn cả giai đoạn dạy học các nội dung cơ bản nhưng ở mức sâu hơn, trừu tượng và khái quát hơn, tường minh hơn so với giai đoạn các lớp 1, 2, 3. Do đó, cơ hội hình thành và phát triển các năng lực tư duy, trí tưởng tượng không gian, khả năng diễn đạt( bằng ngôn ngữ nói và viết ở dạng khái quát và trừu tượng) cho HS sẽ nhiều hơn, phong phú hơn và vững chắc hơn so với các lớp trước. Như vậy, Toán 5 sẽ giúp HS đạt được những mục tiêu dạy học toán không chỉ ở Toán 5 mà toàn cấp Tiểu học. - Trong các tuyến kiến thức của môn Toán thì “ Đại lượng và đo đại lượng” là tuyến kiến thức khó dạy vì tri thức khoa học về đại lượng và đại lượng và tri thức môn học được trình bày có khoảng cách. - Việc dạy học giải các dạng toán về đại lượng trong thực tế nhiều giáo viên còn lúng túng, chưa nắm vững kiến thức khoa học của tuyến kiến thức này và chưa khai thác được quan hệ giữa tri thức khoa học và tri thức môn học, học sinh còn hay nhầm lẫn trong quá trình luyên tập nên hiệu quả học tập chưa cao. Qua nhiều năm trực tiếp dạy lớp 5, trước thực tế đó tôi mạnh dạn nghiên cứu, tìm giải pháp rèn luyện kỹ năng giải các dạng toán về đại lượng và đo đại lượng đồng thời khắc phục những sai lầm khi giải dạng toán này bởi đây là việc cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay để nâng cao chất lượng dạy học. PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 2 B- giải quyết vấn đề I- Tìm hiểu một số vấn đề đại lượng và đo đại lượng trong chương trình toán TH nói chung và của lớp 5 nói riêng. 1- Một số vấn đề về dạy học đại lượng và đo đại lượng trong toán Tiểu học: - Đại lượng là một khái niệm trừu tượng . Để nhận thức được khái niệm đại lượng đòi hỏi học sinh phải có khả năng trừu tượng hoá, khái quát hoá cao nhưng HSTH còn hạn chế về khả năng này. Vì thế việc lĩnh hội khái niệm đại lượng phải qua một quá trình với các mức độ khác nhau và bằng nhiều cách khác nhau. - Dạy học đo đại lượng nhằm làm cho HS nắm được bản chất của phép đo đại lượng, đó là biểu diễn giá trị của đại lượng bằng số. Từ đó HS nhận biết được độ đo và số đo.Giá trị của đại lượng là duy nhất và số đo không duy nhất mà phụ thuộc vào việc chọn đơn vị đo trong từng phép đo. - Dạy học đại lượng và đo đại lượng nhằm củng cố các kiến thức có liên quan trong môn toán,phát triển năng lực thực hành, năng lực tư duy. 2- Vai trò của việc dạy học Đại lượng và đo đại lượng trong chương trình Toán 5: Trong chương trình toán học ở Tiểu học, các kiến thức về phép đo đai lượng gắn bó chặt chẽ với các kiến thức số học và hình học. Khi dạy học hệ thống đơn vị đo của mỗi đại lượng đều phải nhằm củng cố các kiến thức về hệ ghi số( hệ thập phân). Ngược lại, việc củng cố này có tác dụng trở lại giúp nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa các đơn vị đo của đại lượng đó có kiến thức về phép tính số học làm cơ sở cho việc dạy học các phép tính trên số đo đại lượng, ngược lại việc dạy học phép tính trên các số. Việc chuyển đổi các đơn vị đo đại lượng được tiến hành trên cơ sở hệ ghi số; đồng thời việc đó cũng góp phần củng cố nhận thức về số tự nhiên, phân số, số thập phân theo chương trình toán Tiểu học. Việc so sánh và tính toán trên các số đo đại lượng góp phần củng cố nhận thức về khái niệm đại lượng, tính cộng được của đại lượng cộng được, đo được. PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 3 Như vậy dạy học đại lượng và đo đại lượng trong chương trình toán Tiểu học nói chung và toán 5 nói riêng rất quan trọng bởi: - Nội dung dạy học đại lương và đo đại lượng được triển khai theo định hướng tăng cường thực hành vận dụng, gắn liền với thực tiễn đời sống. Đó chính là cầu nối giữa các kiến thức toán học với thực tế đời sống. Thông qua việc giải các bài toán HS không chỉ rèn luyện các kỹ năng môn toán mà còn được cung cấp thêm nhiều tri thức bổ ích. Qua đó thấy được ứng dụng thực tiễn của toán học. Nhận thức về đại lượng, thực hành đo đại lượng kết hợp với số học, hình học sẽ góp phần phát triển trí tượng tượng không gian, khả năng phân tích – tổng hợp, khái quát hoá - trừu tượng hoá, tác phong làm việc khoa học, 3- Nội dung dạy học đại lượng và đo đại lượng trong Toán 5. a. Ôn tập bảng đơn vị đo độ dài, bảng đơn vị đo khối lượng. b. Diện tích: - Bổ sung các đơn vị đo diện tích: dam2, hm2, mm2 và ha. Bảng đơn vị đo diện tích. - Thực hành chuyển đổi giữa các đơn vị đo thông dụng. c. Thể tích: - Giới thiệu khái niệm thể tích. Một số đơn vị đo thể tích: mét khối, đề xi mét khối, xen ti mét khối - Thực hành chuyển đổi giữa một số đơn vị đo thông dụng d. Thời gian; - Bảng đơn vị đo thời gian. Thực hành chuyển đổi giữa một số đơn vị đo thời gian thông dụng. - Thực hành các phép tính với số đo thời gian. - Củng cố nhận biết về thời điểm và khoảng thời gian. g. Vận tốc: - Giới thiệu khái niệm vận tốc và đơn vị đo vận tốc. - Biết tính vận tốc của một chuyển động đều. PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 4 e. Ôn tập tổng kết, hệ thống hoá kiến thức về Đại lượng và đo đại lượng toàn cấp học. 4- Mức độ cần đạt: a. Bảng đơn vị đo dộ dài , đo khối lượng. - Biết tên gọi, ký hiệu, mối quan hệ của các đơn vị đo trong bảng. - Biết chuyển đổi các đơn vị đo. - Biết thực hiện các phép tính với các số đo độ dài, đo khối lượng. b. Bảng đơn vị đo diện tích: - Biết dam2, hm2, mm2, ha. - Biết đọc,viết các số đo diện tích theo đơn vị đo đã học. - Biết tên gọi, kí hiệu, mối quan hệ của các đơn vị đo diện tích. - Biết chuyển đổi các đơn vị đo diện tích. - Biết thực hiện các phép tính với các số đo diện tích. c. Thể tích; - Biết cm3, dm3, m3. - Biết đọc, viết, mối quan hệ giữa các đơn vị thể tích thông dụng. - Biết chuyển đơn vị đo thể tích trong trường hợp đơn giản. d. Thời gian: - Biết mối quan hệ, đổi đơn vị đo thời gian. - Biết cách thực hiện các phép tính số đo thời gian g. Vận tốc: - Nhận biết vận tốc của một chuyển động. - Biết tên gọi, kí hiệu của một số đơn vị đo vận tốc. - Biết tính vận tốc của một chuyển động đều. II- Thực tế về dạy học Toán 5- chương trình 2000 nói chung và dạy học Đại lượng và đo đại lượng trong Toán 5 nói riêng. 1- Về dạy học Toán 5- chương trình 2000. * Thuận lợi: PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 5 - Giáo viên được tập huấn chương trình thay sách giáo khoa đầy đủ. - Nội dung, PPDH có tính khả thi- phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh( Giáo viên cũng đẵ nắm bắt được). - Kiến thức, kỹ năng cơ bản thiết thực, phù hợp với trình độ và điều kiện học tập của học sinh, quán triệt được quan điểm PCGD. Thuận lợi cho việc giảng dạỵ của giáo viên, học sinh dễ tiếp thu bài. - Thiết bị dạy học khá đầy đủ. * Khó khăn: - Việc nắm bắt PPDH mới của giáo viên còn khó khăn, còn phụ thuộc nhiều vào tài liệu hướng dẫn. - Trong dạy học một số giáo viên chưa chú ý, tập trung vào rèn kỹ năng cho học sinh. - Đồ dùng học tập của học sinh không đầy đủ. - Học sinh tiếp thu bài còn chậm, hiệu quả học tập chưa cao. 2- Về dạy học Đại lượng và đo đại lượng trong Toán 5. - Hầu hết giáo viên không có hứng thú dạy tuyến kiến thức này. - Giáo viên chưa đầu tư thực sự vào việc nghiên cứu bài, lập kế hoạch bài dạy. - PPDH của một số giáo viên còn hạn chế, chưa phù hợp, chưa rèn được kỹ năng giải toán hiệu quả chưa cao. Thể hiện: các đề kiểm tra thường có một đến hai câu thuộc tuyến kiến thức này phần lớn học sinh đều làm sai do các em không hiểu bản chất của bài tập nên trong quá trình làm bài thường hay nhầm lẫn. Qua thực tế giảng dạy tôi thấy học sinh thường mắc những sai lầm trong giải toán phép đo đại lượng là: Sử dụng thuật ngữ, suy luận, thực hành đo, so sánh- chuyển đổi đơn vị đo, thực hiện phép tính trên số đo đại lượng, III- Một số nguyên nhân và biện pháp rèn kỹ năng giảI các dạng toán về phép đo đại lượng trong Toán 5 . Cách khắc phục những sai lầm thường gặp. 1- Nguyên nhân: PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 6 * Về giáo viên: - Là tuyến kiến thức khó dạy nên không được một số giáo viên chú trọng và quan tâm. - Một số giáo viên chưa nắm bắt được nội dung, PPDH mới – chưa đổi mới PPDH. - Khi lập kế hoạch dạy học chưa dự kiến những sai lầm học sinh thường gặp * Về học sinh: - Tiếp thu bài thụ động lười suy nghĩ – Nắm bắt kiến thức hình thành kỹ năng chậm. - Học sinh còn có những hạn chế trong việc nhận thức: tri giác còn gắn với hành động trên đồ vật, khó nhận biết được các hình khi chúng thay đổi vị trí, kích thước, kho phân biệt những đối tượng gần giống nhau. Chú ý của học sinh chủ yếu là chú ý không có chủ định nên hay để ý đến cái mới lạ, cái đập vào trước mắt hơn cái cần quan sát. Tư duy chủ yếu là tư duy cụ thể còn tư duy trừu tượng dần dần hình thành nên học sinh rất khó hiểu được bản chất của phép đo đại lượng. - Một số đại lượng khó mô tả bằng trực quan nên học sinh khó nhận thức được. Phần lớn học sinh không thích học tuyến kiến thức này. - Trong thực hành còn hay nhầm lẫn do không nắm vững kiến thức mới. 2- Một số biện pháp rèn kỹ năng giải các dạng toán về Đại lượng và đo đại lượng trong Toán 5. - Phải ... ện tích của hình vuông là 16 cm2. Vì thế không thể nói hình vuông trên đây có chu vi và diện tích bằng nhau. b. Sai lầm khi suy luận. Ví dụ : Hãy chỉ ra sai lầm trong lập luận sau đây của học sinh và giải thích tại sao ? Học sinh A nói với học sinh B: - Sắt nặng hơn Bông. - Hai hình bằng nhau thì có diện tích bằng nhau. Học sinh B khẳng định: vậy thì: - 1kg sắt phải nặng hơn 1 kg bông. - Hai hình có diện tích bằng nhau thì bằng nhau. Cách suy luận như học sinh B không phải là cá biệt. Nguyên nhân: Nguyên nhân của sai lầm này là học sinh chưa hiểu bản chất khái niệm đại lượng và phép đo đại lượng, nhận thức còn cảm tính. PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 22 Biện pháp khắc phục : Để khắc phục sai lầm trên giáo viên nên đưa ra ví dụ hoặc cho học sinh thực hành đo trực tiếp. Chẳng hạn để phủ định khẳng định thứ nhất giáo viên có thể cho học sinh cân trực tiếp bằng cân đĩa. Để phủ định khẳng định thứ hai giáo viên đưa ra một tam giác và 1 hình vuông có diện tích bằng nhau nhưng không trùng khít lên nhau. c. Sai lầm trong thực hành đo. Ví dụ: Khi đo độ dài ta thường thấy các hiện tượng: - Học sinh không đặt 1 đầu vật cần đo trùng với vật số 0 của thước mà vẫn đọc kết quả dựa vào đầu kia của vật ở trên thước. - Trường hợp phải đặt thước nhiều lần học sinh không đánh dấu điểm cuối của thước trong mỗi lần đo trên vật cần đo dẫn đến kết quả đo có sai số lớn. Nguyên nhân: Tất cả những sai lầm trên đều do học sinh chưa hiểu và chưa nắm chắc các thao tác kỹ thuật đo. Biện pháp khắc phục : Để khắc phục hiện tượng nêu trên giáo viên chú ý làm mẫu, kịp thời phát hiện những hiện tượng sai lầm, uốn nắn và giải thích lý do sai cho học sinh. d. Sai lầm khi thực hiện phép tính, so sánh chuyển đổi đơn vị đo trên số đo đại lượng: * Sai lầm do không hiểu phép tính Ví dụ: Từ địa A đến địa điểm B, một người đi xe đạp mất 12 giờ, một người đi xe máy mất 3 giờ. Hỏi thời gian của người đi xe đạp gấp mấy lần của người đi xe máy? Một học sinh làm như sau: Thời gian người đi xe đạp so với thời gian người đi xe máy nhiều gấp: 12 giờ : 3 giờ = 4(lần) Trong cách làm trên học sinh cho rằng tỷ số là thương của 2 đại lượng thời gian. Cách hiểu như thế là hoàn toàn sai. PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 23 ở đây ta phải hiểu: Thời gian của người đi xe máy là 3 giờ, thời gian của người đi xe đạp là: 3 giờ x 4 = 12 giờ, do đó thời gian người đi xe đạp nhiều gấp 4 lần thời gian người đi xe máy. Vì vậy, học sinh phải trình bày như sau: Thời gian người đi xe đạp so với thời gian người đi xe máy nhiều gấp: 12 : 3 = 4 (lần) Nguyên nhân: Do học sinh không hiểu bản chất các khái niẹm độ dài, diện tích, thời gian và bản chất các phép toán trên các số đo đại lượng. Biện pháp khắc phục: Để khắc phục loại sai lầm này, giáo viên cần cho học sinh làm nhiều bài tập về các phép tính trên các số đo đại lượng, chỉ cho học sinh thấy rõ bản chất của các phép tính trên các số đo đại lượng. Chẳng hạn trong ví dụ trên, thực chất của phép tính là tìm tỷ số giữa 2 khoảng thời gian chứ không phải tỷ số của 2 đại lượng thời gian. Giáo viên cũng cần lưu học sinh; Trên các số đo đại lượng có thể thực hiện đủ 4 phép tính + , - , x , : còn đại lượng chỉ có tính chất cộng được, so sánh được. * Sai lầm khi đặt các phép tính 3 giờ 15 phút 12m 3dm 12 phút 30 giây 7 dam Cách đặt 2 phép tính trên là sai, vì các số đo trong mỗi cột dọc không cùng đơn vị. Nguyên nhân: Do học sinh không chú quan sát giáo viên làm mẫu hoặc học sinh có quan sát nhưng lại quên vì không hiểu nghĩa của việc đặt đúng phép tính. Biện pháp khắc phục: Để khắc phục loại sai lầm này, giáo viên cần giúp học sinh biét đặt tính đúng cột dọc, các số đo trong mỗi cột dọc phải cùng đơn vị và lưu y học sinh: Phép cộng, phép trừ chỉ thực hiện được đối với 2 đại lượng với số đo cùng một đơn vị. Với ví dụ trên học sinh cần đặt tính như sau: + - PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 24 3 giờ 15 phút 12 m 3 dm 12 phút 30 giây 7dam Sau đó học sinh thực hiện phép tính như đã học * Sai lầm khi tính toán và chuyển đổi đơn vị Ví dụ 1: Khi thực hiện phép tính: 5 giờ 30 phút – 4 giờ 40 phút Một học sinh thực hiện như sau: 5giờ 30 phút 4giờ 40 phút 0 giờ 90 phút Ví dụ 2: Khi thực hiện phép tính: A = 5 giờ 30 phút + 2,5 giờ – 4 giờ 15 phút – 1,2 giờ Một học sinh thực hiện như sau: 5 giờ 30 phút = 5,3 giờ 4 giờ 15 phút = 4,15 giờ Đưa phép tính về: A = 5,3 giờ + 2,5 giờ – 4,15 giờ – 1,2 giờ A = 7,8 giờ – 2,95 giờ A = 4,85 giờ Các kết quả trong 2 ví dụ trên đều sai. Nguyên nhân: Do học sinh đã coi số đo thời gian được viết trong hệ thập phân như các số thực và không thuộc qui tắc thực hiện dãy các phép tính. Biện pháp khắc phục: Để khắc phục những sai lầm trên giáo viên cần cho học sinh nắm vững mối quan hệ giữa các đơn vị đo thời gian, cách chuyển dổi số đo thời gian về số thập phân và ngược lại, nám vững qui tắc thực hiện một dãy các phép tính. Với 2 ví dụ trên học sinh cần phải làm như sau: + - - PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 25 Ví dụ 2: A = 5 giờ 30 phút + 2,5 giờ – 4 giờ 15 phút – 1,2 giờ Phân tích: 5 giờ 30 phút = 5,5 giờ 4giờ 15 phút = 4,25 giờ Cách ghi: A = 5,5 giờ + 2,5 giờ – 4,25 giờ – 1,2 giờ A= 8 giờ – 4,25 giờ – 1,2 giờ A = 3,75 giờ – 1,2 giờ A = 2,55 giờ Ví dụ 1: 5giờ 30 phút 4giờ 90 phút 4giờ 40 phút 4giờ 40 phút 0giờ 50 phút . Ví dụ 3: Khi chuyển đổi các số đo: 12579 m2 = km2 .hm2 dam2 m2 9 m2 4cm2 = m2 7 m3 5dm3 = m3 Một học sinh đã làm như sau: 12579 m2 = 12 km2 5 hm2 7 dam2 9 m2 9 m2 4cm2 = 9,4 m2 7 m3 5dm3 = 7,5 m3 Các kết quả trên đều sai: Nguyên nhân: Do học sinh không nắm vững mối quan hệ giữa các đơn vị đo diện tích, thể tích. Học sinh đã coi quan hệ giữa các đơn vị đo diện tích cũng như quan hệ giữa các đơn vị đo thể tích và giống quan hệ giữa các đơn vị đo độ dài. Biện pháp khắc phục: Giáo vien cần cho học sinh nắm vững mối quan hệ giữa các đơn vị đo diện tích (hai đơn vị đo diện tích kề nhau gấp kém nhau 100 lần. Mỗi - - PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 26 đơn vị đo diện tích ứng với 2 chữ số). Mối quan hệ giữa các đơn vị đo thể tích (hai đơn vị đo thể tích kề nhau gấp kém nhau 1000 lần. Mỗi đơn vị đo thể tích ứng với 3 chữ số). Cho học sinh so sánh mối quan hệ giữa cácđơn vị đo diện tích, đo thể tích với quan hệ giữa các đơn vị đo độ dài. Ra nhiều bài tập về phần này để học sinh làm và ghi nhớ. Như vậy kết quả đúng của ví dụ 3 phải là: 12579 m2 = 0 km2 1hm2 25 dam2 79 m2 9 m2 4cm2 = 9,0004m2 7 m3 5dm3 = 7,005m3 Nếu trong quá trình dạy học, giáo viên nắm bắt được những sai lầm, tìm hiểu nguyên nhân của những sai lầm đó và đề ra biện pháp khắc phục kịp thời thì hiệu quả dạy học chắc chắn sẽ cao. C- bài học kinh nghiệm Để nâng cao hiệu quả dạy học tuyến kiến thức Đại lượng và đo Đại lượng ở lớp 5 nói riêng và môn toán nói chung giáo viên cần: -Nắm chắc quy trình dạy học đo đại lượng để giúp học sinh hiểu được bản chất của phép đo. Năm chắc quy trình hình thành khái niệm Đại lượng, phương pháp dạy học phép đo các đại lượng hình học(đo độ dài, đo diện tích, đo thể tích), phép đo khối lượng, dung tích, phép đo thời gian. -Nắm chắc và hiểu sâu nội dung, mức độ của nội dung, PPDH của tuyến kiến thức đại lượng và đo đại lượng. - Phải đổi mới PPDH trên cơ sở phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Đây là việc làm đòi hỏi giáo viên phải kiên trì trong nhiều năm và phải có quyết tâm cao. - Khuyến khích tăng cường các hình thức dạy học ( Cá nhân, nhóm, tập thể, trò chơi học tập,), tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, đổi mới cách đánh giá, kiểm tra PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version Một số biện pháp rèn kĩ năng giải các dạng toán về Đại l-ợng và đo đại l-ợng ở lớp 5 Hoàng Thị Hoài Thanh - Tr-ờng Tiểu học Thanh T-ờng – Thanh Ch-ơng 27 - Dành thời gian để nghiên cứu bài, lập kế hoạch bài dạy, dự kiến những sai lầm thường gặp. Phân tích, tìm nguyên nhân của những sai lầm đó để đề ra những biện pháp khắc phục kịp thời. - Cùng học sinh xây dựng môi trường học tập thân thiện có tính sư phạm cao, động viên và hướng dẫn học sinh chăm học, trung thực, khiêm tốn, vượt khó trong học tập. -Theo dõi, quan tâm, hỗ trợ mọi đối tượng học sinh để các em được hoạt động thực sự- tìm ra kiến thức mới, như vậy các em sẽ nhớ lâu, phát triển được tư duy, phát huy tính tích cực của mọi học sinh. D. Kết luận Trên đây là một số biện pháp rèn kỹ năng giải các dạng toán về Đại lượng và đo đại lượng trong chương trình Toán 5 và một số biện pháp khắc phục những sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi học tuyến kiến thức này. Bản thân tôi đã áp dụng trong quá trình dạy học môn Toán ( đặc biệt là năm học 2006 - 2007 ở lớp 5B – Trường Tiểu học Thanh Tường ) và đạt được những kết quả khả quan, thể hiện rõ ở từng tiết học và qua các bài kiểm tra chất lượng cuối kỳ. Các biện pháp trên đã được thảo luận ở tổ, khối, chuyên môn trường và được đánh giá cao. Tuy nhiên do trình độ chuyên môn của bản thân còn hạn chế nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những thiếu sót và rất cần đến sự góp ý, bổ sung của Hội đồng khoa học Trường Tiểu học Thanh Tường, Phòng Giáo dục huyện Thanh Chương và bạn đọc. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thanh Tường, ngày 20 tháng 5 năm 2007. Người viết Hoàng Thị Hoài Thanh PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Tài liệu đính kèm: