I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
Đất nước ta đang ở thời kỳ phát triển về mọi mặt, trong đó sự phát triển về kinh tế, ngoại giao đòi hỏi con người phải biết giao tiếp, biết lựa chọn nội dung giao tiếp một cách đúng đắn, cần đảm bảo mối quan hệ qua lại. Nếu như một mắt xích nào đó của hoạt động giao tiếp bị phá huỷ thì người nói không thể đạt được kết quả giao tiếp như mong đợi.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ là việc thông báo cho nhau, trao đổi với nhau những tin tức nào đó, bộc lộ với nhau những niềm vui, nỗi buồn nào đó bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện sắc bén để giao tiếp với mọi người trong xã hội thành một bài văn, một tác phẩm văn học là một điều rất khó đối với học sinh bậc tiểu học. Do đó chất lượng dạy tiếng việt ở các trường tiểu học nói chung và chất lượng dạy tập làm văn ở tiểu học nói riêng là cực kỳ quan trọng. Nó giúp học sinh có một năng lực mới: năng lực sản sinh văn bản. Nhờ có năng lực này, các em học sinh sử dụng được tiếng việt làm tư duy, giao tiếp và học tập vì trong đời sống, văn bản mới là đơn vị hoàn chỉnh giao tiếp.
Tập làm văn nói đòi hỏi học sinh huy động vốn kiến thức nhiều mặt từ các hiểu biết về cuộc sống đến các tri thức về văn học, khoa học thường thức vì nó sử dụng nhiều loại kỹ năng dùng từ, đặt câu, kỹ năng nghe nói.
Riêng môn tập làm văn lớp 3, tiết làm miệng chiếm tỷ lệ hơn 2/3 bài trong năm học. Khi học tiết tập làm văn miệng, học sinh chưa tự giác nói hoặc ngại nói hoặc có khi nói một cách rời rạc tản mạn, nhàm chán cho nên hiệu quả mang lại chưa cao. Từ đó, khi viết một đoạn văn rất khó, không biết phải viết gì, viết từ đâu ? Làm ảnh hưởng đến việc “ nói thông – viết thạo”.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TẬP LÀM VĂN NÓI – KỂ Ở LỚP 3 I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH: Đất nước ta đang ở thời kỳ phát triển về mọi mặt, trong đó sự phát triển về kinh tế, ngoại giao đòi hỏi con người phải biết giao tiếp, biết lựa chọn nội dung giao tiếp một cách đúng đắn, cần đảm bảo mối quan hệ qua lại. Nếu như một mắt xích nào đó của hoạt động giao tiếp bị phá huỷ thì người nói không thể đạt được kết quả giao tiếp như mong đợi. Giao tiếp bằng ngôn ngữ là việc thông báo cho nhau, trao đổi với nhau những tin tức nào đó, bộc lộ với nhau những niềm vui, nỗi buồn nào đó bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện sắc bén để giao tiếp với mọi người trong xã hội thành một bài văn, một tác phẩm văn học là một điều rất khó đối với học sinh bậc tiểu học. Do đó chất lượng dạy tiếng việt ở các trường tiểu học nói chung và chất lượng dạy tập làm văn ở tiểu học nói riêng là cực kỳ quan trọng. Nó giúp học sinh có một năng lực mới: năng lực sản sinh văn bản. Nhờ có năng lực này, các em học sinh sử dụng được tiếng việt làm tư duy, giao tiếp và học tập vì trong đời sống, văn bản mới là đơn vị hoàn chỉnh giao tiếp. Tập làm văn nói đòi hỏi học sinh huy động vốn kiến thức nhiều mặt từ các hiểu biết về cuộc sống đến các tri thức về văn học, khoa học thường thức vì nó sử dụng nhiều loại kỹ năng dùng từ, đặt câu, kỹ năng nghe nói. Riêng môn tập làm văn lớp 3, tiết làm miệng chiếm tỷ lệ hơn 2/3 bài trong năm học. Khi học tiết tập làm văn miệng, học sinh chưa tự giác nói hoặc ngại nói hoặc có khi nói một cách rời rạc tản mạn, nhàm chán cho nên hiệu quả mang lại chưa cao. Từ đó, khi viết một đoạn văn rất khó, không biết phải viết gì, viết từ đâu ? Làm ảnh hưởng đến việc “ nói thông – viết thạo”. Từ những vấn đề nêu trên, tôi muốn tìm tòi ra những biện pháp, phương pháp giảng dạy tập làm văn nói để đạt được mục đích yêu cầu cao trong giảng dạy, cũng như các em học sinh thoải mái, ham thích và tiếp thu bài một cách dễ dàng trong môn học này. Bản sáng kiến kinh nghiệm này của tôi viết ra với mục đích là đưa ra một số biện pháp để giúp học sinh học tốt môn tập làm văn Nói – Kể ở lớp 3. II. NHỮNG THUẬN LỢI – KHÓ KHĂN: 1. Thuận lợi: Đa số học sinh trong lớp có học lực khá giỏi, môi rường giao tiếp nhiều nên việc tiếp thu một bài văn, một đoạn văn dễ dàng hơn. Học sinh được học hai buổi/ 1 ngày nên có rất nhiều thời gian ôn tập, rèn kỷ năng Nghe – Nói – Đọc – Viết cho học sinh. Phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em mình. 2. Khó khăn: Trình độ học tập của học sinh không đồng đều. Một số em còn nhút nhát, ngại nói, vốn từ tích luỹ chưa nhiều, diễn đạt kém, bài văn còn dập khuôn theo mẫu, chưa có sự sáng tạo. Năng lực cảm thụ văn học qua giờ tập đọc còn hạn chế, quá trình nói, kể còn nặng nề, liệt kê là chính. Giáo viên dạy phân môn tập làm văn có phần hơi trừu tượng nên phần lớn trong các tiết dạy của giáo viên còn hay áp đặt cho học sinh trả lời hoặc nói theo ý mình hoặc chỉ yêu cầu học sinh khá giỏi làm mẫu cho cả lớp nghe. Mặt khác chưa tạo sự hứng thú học tập trong phân môn tập làm văn, đặc biệt là dạng bài Nói – Kể cho học sinh. Xuất phát từ những hạn chế nêu trên. Bản thân tôi đã nghiên cứu, tìm tòi được một số biện pháp khắc phục như sau: III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: 1.Tìm hiểu đề: Để hoàn thành một bài văn (nói ) trước tiên, giáo viên cần giúp các em xác định rõ yêu cầu của đề bài, tìm hiểu kỹ xem đề bài yêu cầu chúng ta làm gì ? Nói về cái gì? Học sinh sẽ không biết nói gì và nói như thế nào nếu như cũng câu hỏi này chưa được làm sáng tỏ trong suy nghĩ của các em. Nội dung nói, kể có thể được quan niệm tương đối rộng, từ những điều cần biết – những điều hiểu biết thật, cụ thể về đời sống xã hội, tự nhiên. Những biểu hiện sâu rộng về nhiều mặt sẽ giúp các em vững vàng trong khi nói, tự tin vào những điều mình nói và cụ thể khi nói các em sẽ bình tỉnh, chủ động hơn. Ví dụ: Sử dụng một đoạn văn trong bài “ Nhớ lại buổi đầu đi học” ( sách TV3 tập một trang 51). - Gọi một học sinh đọc một đoạn văn, sau đó giáo viên đặt câu hỏi gợi ý ( Ví bài tập làm văn nói ở tuần 6 chỉ đơn giản có đề bài: “ Kể lại buổi đầu em đi học”) - Bài văn này nói đến ai ? (Tác giả ) - Tác giả trong bài thế nào ? (Nhớ lại buổi đầu đi học ) - Buổi đầu đi học của tác giả ra sao ? (Có nhiều kỷ niệm đáng nhớ ) - Hoặc: Đề bài yêu cầu kể chuyện gì ? Phần chính cần kể lại những tình tiết nào ? Tên bắt đầu và kết thúc ra sao ? Ví dụ: Kể về quê hương. - Giáo viên cần đặt câu hỏi để học sinh xác định yêu cầu đề bài nói gì? ( Nói quê hương ) + Quê hương là gì ? ( Là nơi sinh ra mình hoặc là nơi ông bà, cha mẹ ở ) + Quê hương ở đâu ? ( Nông thôn hoặc thành phố, hoặc núi ) + Ở thành phố có cảnh đẹp gì ? ( Đường phố, nhà cao tầng ) + Cảnh nông thôn thế nào ? ( Luỹ tre, cánh đồng, con trâu ) - Với cách gợi mở như vậy, học sinh có thể tư duy được, hình dung được quê hương là gì ? Quê hương như thế nào ? Quê hương có gì đẹp. Từ đó các em biết kể, biết nói về quê hương một cách cụ thể mà không mông lung ngần ngại. Khi đã hiểu đề bài yêu cầu nói đến cái gì ? Nói như thế nào thì việc cảm thụ một đoạn văn đối với các em dễ dàng khó quên. - Từ những câu hỏi đó, học sinh có thể hiểu được đề bài yêu cầu mình nhớ lại ngày đầu đi học một cách dễ dàng và từ đó các em hứng thú và nói một cách hào hứng hơn. 2. Sử dụng hệ thống câu hỏi : Đây là một biện pháp gợi mở để kích thích và định hướng cho học sinh phát triển ý. Câu hỏi cần phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi quan tâm và kinh nghiệm riêng của các em. Ví dụ: Kể về lễ hội ( TV 3 tập 2 trang 64) Giáo viên nên đưa ra một số câu hỏi gợi ý, vì đối với học sinh trung bình trở xuống mà yêu cầu các em chỉ nhìn tranh thì không thể nào kể được (Khả năng quan sát và cách diễn đạt kém ). Từ đó để giúp các em dễ dàng khi nói, kể giáo viên đặt câu hỏi gợi ý như sau: - Lễ hội được tổ chức ở đâu ? - Em thấy ở lễ hội, người ta trang trí thế nào ? - Mọi người đến xem ra sao ? - Lễ hội có trò chơi gì ? - Trên cao, màu sắc lá cờ thế nào ? - Người tham gia trò chơi đang làm gì ? - Khung cảnh lễ hội thế nào ? - Em có cảm nghĩ gì về lễ hội ? Với hệ thống câu hỏi gợi mở như một dàn ý để các em có thể dựa vào mà nói, trả lời một cách lưu loát, trôi chảy. Các em không sợ nói sai và sẽ nói một cách tự tin. Vì chủ đề lễ hội đối với các em là rất khó do không được nhìn thấy thực tế, không được tiếp cận vì ở địa phương không có hoặc các em không được xem. Ví dụ: Bài kể: “ Nhớ lại buổi đầu đi học” Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi như sau: - Buổi đầu em đến lớp là buổi sáng hay chiều ? - Thời tiết thế nào ? - Ai dẫn em đến trường ? - Lúc đầu em bỡ ngỡ ra sao ? - Buổi học đã kết thúc thế nào ? - Cảm xúc của em về buổi học đó ? - Trong khi học sinh dựa theo gợi ý nói, giáo viên có thể lưu ý cho học sinh không nhất thiết phải kể về ngày tựu trường mà có thể kể buổi đầu đến lớp (do các em không có mặt trong ngày khai giảng ). Qua hệ thống câu hỏi trên đã giúp được các em ( nhất là học sinh nhút nhát, học chậm ) mạnh dạn nói, tự tin hơn và cách nói sẽ chặt chẽ hơn. 3. Học sinh nói, kể mẫu : Việc phát huy trí tuệ của học sinh trước hết phụ thuộc vào hệ thống câu hỏi, từ đó các em biết cách diễn đạt, trả lời đúng, đủ và rõ ý bằng lời văn tự nhiên, chân thành và giản dị ( chưa đòi hỏi có sự trau chuốt, “bóng bẩy” về lời văn như bài viết ). Vì thế khi gọi một học sinh lên nói, kể mẫu, giáo viên phải gọi học sinh khá, giỏi để các em làm mẫu, làm nền tảng cho các học sinh khác ( nhất là học sinh trung bình, yếâu, học sinh nhút nhát ) học sinh làm mẫu sẽ nói, kể mạch lạc các ý tạo được sức thuyết phục phù hợp với nội dung diễn tả, thái độ thoải mái tự tin. Ví dụ: Trả lời theo gợi ý bài: “ Nhớ lại buổi đầu đi học” học sinh làm mẫu: - Buổi đầu em đến lớp là buổi sáng hay buổi chiều ? - Trả lời: Buổi sáng ngày hôm ấy, em được mẹ dẫn đi học lớp một ở trường Với cách trả lời đó, học sinh khác ( đối với học sinh yếu) các em cũng biết mạnh dạn trả lời: - Em được mẹ dẫn đi học vào buổi sáng. Hoặc: - Bố dẫn em đi học vào buổi chiều ở trường Ví dụ: Gọi một học sinh khá giỏi nói mẫu ở bài: Kể về người hàng xóm. - Người hàng xóm mà em kể là chú Quang làm công nhân ở nhà máy Xi Măng Hà Tiên II. Gia đình em rất qúy chú, còn chú thì rất thương em. Đi về chú cũng mua qùa cho em. Em rất yêu quý chú và xem chú như là một người thân của gia đình mình. Ví dụ về văn viết thư: Để viết được một lá thư với nội dung tương đối thì đối với học sinh lớp 3 là một điều rất khó khăn. Gia đình em sẽ không biết bắt đầu viết như thế nào ? Viết từ đâu ? Trình tự ra sao ? Vì bản thân các em nói còn chưa rõ, diễn đạt còn lủng củng thì làm sao viết được một lá thư để gửi. Do đó ở khâu luyện nói là cót lõi để từ đó các em có cơ sở viết tốt hơn. Cho nên giáo viên cần hướng các em kh ... kể song song với việc rèn luyện về tư duy và ngôn ngữ cho học sinh qua việc trình bày từng ý trong một đoạn, một bài văn. Cách suy nghĩ và diễn đạt của học sinh được rèn luyện để ngày càng mạch lạc trong sáng. Việc đạt những ý cụ thể cũng đòi hỏi học sinh phải tìm tòi, sử dụng từ ngữ sao cho sinh động, từ đó phát triển tư duy và ngôn ngữ sáng tạo ở học sinh, tránh lập lại “từ” nhiều lần làm cho câu văn mất hay. Ví dụ: Nói về “ Người lao động trí óc” ( Tuần 22 sách TV3 tập 2) - Diễn đạt ý chưa thành câu: Học sinh nói theo gợi ý: người đó là ai làm nghề gì ? + Trả lời: Là bác em làm công nhân Giáo viên có thể giúp học sinh diễn đạt ý cho thành câu như sau: + “ Người mà em muốn kể là bác của em làm công nhân ở nhà máy xi măng”. - Khi nói phải nói rõ, đầy đủ câu, diễn đạt ý trọn vẹn thì người nghe mới hiểu mình nói gì ? Hoặc khi diễn đạt các em có thói quen hay dùng từ lập lại nhiều lần. Ví dụ: Trong một đoạn văn, học sinh nói như sau: “ Bố em làm thợ hồ. Bố em làm việc từ sáng đến chiều, bố em rất thương chúng em - Giáo viên cần chấn chỉnh uốn nắn để các em thấy được việc dùng từ được lập lại nhiều lần sẽ làm cho đoạn văn, bài văn giảm đi sức thuyết phục và rời rạc. 5. Sử dụng vốn từ: Về việc giáo viên cung cấp vốn từ cho học sinh. Trước hết giáo viên phải chú ý xây dựng còn những từ ngữ trong sách giáo khoa, các em có thể tự bổ sung một số từ khác dựa vào hiểu biết của riêng mình về chủ đề đã học. Ví dụ: Sử dụng về “Quê hương” tuần 11: + Chỉ sự vật ở quê hương cây đa, mái đình, dòng sông, con đò + Chỉ tình cảm đối với quê hương: Gắn bó, nhớ thương bùi ngùi, tự hào Khi học sinh làm bài văn nói, kể về quê hương, giáo viên viết những từ ngữ đã học ( Ở trên vừa nêu) lên bảng để học sinh vừa nói vừa đưa từ đã học vào cho câu văn bóng bẩy, diễn đạt tốt. Ví dụ: Cảnh vật cây đa, mái đình làm cho em luôn bùi ngùi, gắn bó. Em càng tự hào về quê hương của em. Như vậy đối với phân môn này, khi dạy giáo viên không dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức mà phải chú ý nhiều ở khâu thực hành trong mỗi câu, mỗi đoạn, mỗi bài để học sinh nắm vững và vận dụng vào tập làm văn nói, kể của mình. 6. Phải tạo được hoàn cảnh giao tiếp tốt: Hoàn cảnh ở đây hiểu là điều kiện lớp học trong thời điểm luyện nói như: Không khí lớp học, nét mặt, cử chỉ giáo viên, các hoạt động nghe của học sinh, trật tự lớp học. Trật tự lớp học và những hoạt động khác có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nói năng của học sinh. Học sinh không thể nói hoặc sẽ không muốn nói trong điều kiện lớp ồn ào hoặc có thái độ không tôn trọng thể diện của người khác. Khi luyện tập làm văn nói, kể, giáo viên cần hết sức chú ý tới hoạt động chung về mọi mặt của lớp. Một lời động viên của thầy giáo, một ánh mắt triều mến của cô giáo, sự lắng nghe chăm chú, nghiêm túc của bạn bè trong lớp sẽ là một niềm động viên lớn khích lệ cổ vũ, giúp các em tự tin, mạnh dạn trong khi nói. Giáo viên cần chú ý là: Khi các em đang nói nghĩa là các em đang giao tiếp với bạn bè, thầy cô, thì việc ngắt lời học sinh và cả việc tiếp lời của các em không đúng lúc, đúng chỗ là không nên. Để giúp học sinh học tốt môn tập làm văn nói, kể giáo viên và học sinh cần khắc phục những hạn chế trên. - Khi nói cần hết sức bình tĩnh tự tin. - Khi nói cần hết sức theo dõi diễn biến tâm lý, sự hứng thú của người nghe đối với bài nói của mình để có thể điều chỉnh kịp thời cách nói. - Cần phải tôn trọng những nghi thức lời nói trong giao tiếp. - Ngữ điệu có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của bài nói. - Khi nói cần tránh lối nói như đọc thuộc lòng. 7.Kỹ năng nghe: Tiếp tục làm văn nói còn có ý nghĩa thực hành giao tiếp bằng ngôn ngữ. Do vậy bên cạnh yêu cầu chính là rèn luyện kỹ năng nói. Giáo viên cần kết hợp luyện kỹ năng nghe cho học sinh. Qua việc nghe và nhận xét lời nói của bạn dưới sự hướng dẫn, gợi mở của giáo viên, mỗi học sinh vừa được nâng cao ý thức học tập, rút kinh nghiệm, biết tự củng cố và điều chỉnh để tập nói, kể tốt hơn. Phải tuỳ thuộc vào trình độ của mỗi học sinh mà yêu cầu các em nói vấn đề lớn hay nhỏ. Với học sinh trung bình, kém ta có thể dùng phương pháp gợi mở từ từ. Vì các em được nghe bạn nói bổ sung vào phần chuẩn bị và học cách nói của bạn. Giáo viên nên cho học sinh kém nói ý nhỏ, ý dễ nói ( Vì khả năng nghe của các em này cũng rất hạn chế ) để giúp các em tự tin, phát huy tính mạnh dạn suy nghĩ. Ở bài viết, nói về cảnh đẹp đất nước. Đây là loại bài khi nói phải nhìn vào tranh để nói được, viết được một đoạn văn từ năm đến bảy câu. Để nói viết được thì điều trước tiên các em phải nghe được các bạn khá, giỏi nói mẫu, phát biểu cũng như nghe được cô uốn nắn, sửa cách nói của các bạn. Nghe được những lời nói, lời kể nào là đúng, là hay để học tập tiếp nhận. Nghe được những lời nói, lời kể nào là sai, là chưa phù hợp để tránh không lặp lại, không nói sai nói thừa. - Học sinh nghe một bạn nói đúng như sau: Ví dụ: + Đây là bức tranh chụp cảnh bãi biển ở Hà Tiên rất đẹp. - Học sinh nghe một bạn nói trôi chảy, chưa phù hợp như sau: + Ở Hà Tiên có biển rất đẹp mà ba em dẫn đi chơi. Với cách nói như vậy, học sinh nghe và hiểu được nói như thế nào là hay, không đúng ( nghe cô giáo và các bạn nhận xét ). Từ đó, các em sẽ biết nói một cách lưu loát, rõ ràng, nghe suôn tai và viết được một câu văn, một đoạn văn tốt hơn. 8. Nhận xét – Biểu dương: - Đây là khâu hết sức cần thiết và quan trọng mang tính chất kích thích sự hứng thú và các em khẳng định lời nói của mình ở mức độ như thế nào? Hiệu quả ra sao? Để từ đó các em sẽ tự tin, bình tĩnh mạnh dạn khi nói, kể trước lớp. + Nhận xét bạn nói đúng để bạn thấy được việc nói, kể của mình là có hiệu quả, qua đó bạn càng tự tin hơn, nhưng biết được khả năng học của mình và càng phấn đấu nhiều hơn, nhưng khi bạn nói sai, được các bạn nhận xét thì giáo viên cũng cần phải khéo léo nhận xét và có những lời nói động viên, an ủi chứ không tỏ thái độ quát tháo, chê bai xúc phạm đến học sinh. Nếu chúng ta sử sự không khéo thì lần sau chắc chắn các em sẽ không dám nói, không dám giơ tay phát biểu. Không riêng gì học sinh mà bản thân chúng ta là người lớn cũng vậy. Khi được người khác khen ngợi, cổ vũ thì bản thân cũng thấy vui, thấy sung sướng và tinh thần phấn chấn hơn. Do đó việc biểu dương khen thưởng kịp thời chính là đòn bẩy để giúp các em tích cực nói mạnh dạn hơn. Giáo viên cần biểu dương kịp thời đúng lúc, không đại trà sẽ làm giảm đi giá trị khen thưởng và làm cho học sinh nhàm chán. IV. KẾT QUẢ : Với một số biện pháp nêu trên đã phần nào giúp cho học sinh hăng hái, mạnh dạn, tự tin bộc lộ mình rõ hơn khi học mô tập làm văn nói, kể. Các em biết tự tư duy, sáng tạo, tìm ra sản phẩm học tập của mình qua những câu nói, câu kể ngắn gọn, rõ ràng, diễn đạt trôi chảy. Giờ học môn tập làm văn nói, kể trở nên sôi nổi, sinh động, tạo sự nhịp nhàng trong hoạt động giữa thầy và trò, kết quả đạt được cho thấy như sau: Tổng số học sinh 22 Học sinh nói, kể diễn đạt tốt Học sinh nói, kể diễn đạt tương đối tốt Học sinh nói, kể diễn đạt chưa tốt Đầu năm 05 12 05 Học kỳ II ( Cuối tháng 3 09 10 03 V/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM : Từ những kết quả đạt được, bản thân tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau: - Giáo viên cần chuẩn bị bài dạy chu đáo, rõ ràng. - Thường xuyên nghiên cứu, tham khảo, tìm tòi để tìm ra những giải pháp tốt. - Theo dõi, bám sát trình độ từng học sinh để truyền thụ kiến thức phù hợp với đối tượng. - Tránh cho học sinh nói, kể rập khuôn theo bài đọc, bài mẫu không có sự sáng tạo. - Cần chú trọng khi dạy tập làm văn nói, kể tránh dạy theo lối áp đặt hay qua loa. Tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học kém và nhút nhát mạnh dạn nói, kể. - Tạo hứng thú và nhẹ nhàng khi dạy phân môn này. VI/ KẾT LUẬN: Môn tập làm văn nói, kể ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng là môn học rất quan trọng đối với học sinh để làm nền tảng cho các em trong giao tiếp, biết vận dụng kiến thức, kỹ năng nghe đọc viết nhằm sản sinh ra một văn bản, một tác phẩm nhỏ. Một bài văn súc tích, một lời nói hay, trôi chảy luôn để lại nhiều ấn tượng đẹp trong tâm hồn người đọc, người nghe một cách mạnh mẽ. Do đó, để đạt được hiệu quả cao trong phân môn tập làm văn nói – kể ở lớp 3, bản thân giáo viên phải chủ động tìm tòi, sáng tạo, học hỏi để tìm giải pháp tốt nhất để giảng dạy, lấy cuộc sống thực tế là phương pháp tốt nhất. Có như vậy mới thực hiện đạt kết quả cao. Từ cải tiến phương pháp đó mới giúp cho các em mạnh dạn, tự tin nói nhiều, nói hay, khả năng giao tiếp tốt nâng cao chất lượng cho môn học này nhằm đáp ứng với yêu cầu phát triển và đổi mới của xã hội nói chung và sự nghiệp giáo dục nói riêng. Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng giảng dạy trong năm học đã đem lại một số kết quả tốt. Rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của đồng nghiệp trong công tác giảng dạy. ngày 28 tháng 04 năm 2008
Tài liệu đính kèm: