Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 đọc diễn cảm

docx 8 trang Người đăng hạnh nguyên Ngày đăng 15/12/2025 Lượt xem 17Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 đọc diễn cảm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 PHÒNG GD- ĐT TP BẠC LIÊU
TRƯỜNG TH NGUYỄN DU
 CHIA SẺ KINH NGHIỆM
 “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 đọc diễn cảm”
 Người báo cáo: Lâm Thị Bạch Liên
 Đơn vị: Trường Tiểu học Nguyễn Du
 Thời gian thực hiện: ngày 24/ 3 /2018
 I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
 Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển 
 toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và 
 cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.
 Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự 
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ 
bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bước đầu 
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, làm nền tảng cho học sinh tiếp tục học trung 
học cơ sở. 
 Mặt khác, giáo dục Tiểu học là nền móng đầu tiên giúp con người tồn tại và phát 
triển, trong đó môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng vì nó hình thành và 
phát triển cho học sinh khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ, giúp trẻ 
tiếp thu các môn học khác. 
 Tiếng Việt ở Tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện, 
Chính tả, Tập làm văn. Mỗi một phân môn đều có một chức năng khi dạy ngữ văn ở 
nhà trường, đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn mà Tập đọc là một 
phân môn giữ vị trí rất quan trọng. 
 Tập đọc là một phân môn mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy học nó 
còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng Việt cho học sinh (về phát âm, từ ngữ, câu 
văn,...) kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm thẩm mĩ. Tập đọc 
ở Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng giữ một nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ 
Tập đọc, việc học sinh biết đọc đúng và diễn cảm bài văn, bài thơ sẽ tạo cho các em sự 
say mê hứng thú trong học tập và tích lũy một vốn kiến thức văn học đáng kể sau này 
cho các em. 
 Phân môn Tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục mĩ cảm, học sinh yêu cái 
đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn 
chương . Tập đọc còn rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng và cả tư duy lôgíc. Giờ 
Tập đọc ngoài việc dẫn dắt cho học sinh tìm nội dung để phát triển óc tổng hợp, tìm bố 
cục để phát triển óc phân tích, các em còn được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đoán, 
ghi nhớ. 
 Phân môn Tập đọc còn được kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác của chương 
trình Tiếng Việt. Qua các bài văn được học, học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng, sinh động, được luyện 
tập về Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn.
 Ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng phân môn Tập đọc có hai yêu cầu 
cơ bản là:
 • Rèn kĩ năng tập đọc.
 • Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn.
 Học phân môn Tập đọc, việc đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật thiết với 
nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau, cảm thụ tốt giúp việc đọc đúng, diễn cảm tốt. 
Ngoài ra đọc đúng và diễn cảm tốt giúp cho việc cảm thụ bài văn thêm sâu sắc. Học 
sinh có đọc đúng, đọc thông thạo và trên cơ sở đã hiểu nội dung câu thơ, câu văn, đoạn 
thơ, đoạn văn thì các em mới thể hiện được cảm xúc, tức là đã hiểu tường tận về nội 
dung và nắm được ý nghĩa giáo dục của bài. Điều đó khẳng định rằng trong tiết Tập đọc 
lớp 5, việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh là rất cần thiết. Trong tiết học, học 
sinh có đọc đúng, biết đọc diễn cảm thì viết chính tả, dùng từ, đặt câu mới đúng; viết tập 
làm văn mới hay.
 Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập đọc, tôi đã chọn đề 
tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 đọc diễn cảm” để báo cáo và chia sẻ lại kinh 
nghiệm ít ỏi của mình. Đồng thời cũng mong nhận lại sự chia sẻ kinh nghiệm của quý 
thầy cô trong các tiết dạy Tập đọc ở lớp 5.
 II. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN:
 1. THUẬN LỢI
 - Ở lớp 5 kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành từ các lớp dưới; tăng 
cường tốc độ đọc, khả năng đọc lướt để chọn thông tin nhanh.
 - HS đọc đúng các cụm từ, ngắt nghỉ đúng câu.
 - HS phát âm đúng các phụ âm khó đọc hay lẫn lộn.
 - Có thể phát triển kĩ năng đọc - hiểu lên mức cao hơn: nắm và vận dụng được 
một số khái niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách, để hiểu ý nghĩa của bài 
và phát hiện một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ.
 - Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình 
thành nhân cách con người mới.
 2. KHÓ KHĂN:
 2.1. Về phía học sinh: 
 - Có những học sinh học tới lớp 5 đọc vẫn chưa lưu loát, còn ngắc ngứ, ngắt nghỉ 
còn chưa đúng chỗ, nhấn giọng lên xuống tuỳ tiện. Trong quá trình đọc, một số em còn 
hấp tấp không chuẩn bị kĩ cho việc đọc nên đọc quá nhanh, dẫn đến sai từ, thêm hoặc 
bớt từ làm ảnh hưởng đến ỹ nghĩa của bài văn, bài thơ. Do đó các em không hiểu được 
nội dung, không hiểu được nghệ thuật, không hiểu được cái hay cái đẹp của tác phẩm.
 - Các em chưa có thói quen xem trước bài mới ở nhà nên việc đọc ở lớp không 
hiệu quả.
 - Do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương phát âm chưa chuẩn, nên học sinh còn 
đọc sai, phát âm nhầm lẫn r/g, tr/ch .. - Một số em do cha mẹ bận công việc và kiến thức còn hạn chế nên chưa thực sự 
quan tâm đến việc sửa lỗi hoặc không sửa được cách đọc cho con thường xuyên.
 2.2. Về phía giáo viên:
 - Khi học sinh đọc sai đọc lại để sửa thì chưa rèn dứt điểm những phụ âm đầu 
hay sai. Nhiều giáo viên đọc chưa hay làm ảnh hưởng không ít tới việc đọc của học 
sinh. Hơn nữa trong giờ tập đọc có giáo viên chưa quan tâm nhiều đến những học sinh 
đọc chưa tốt.
 - Trong giảng dạy việc rèn đọc diễn cảm mang tính chất hình thức, nhiều giáo 
viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh rèn đọc: đọc thành tiếng, đọc thầm. 
Ngược lại, trong giờ tập đọc có giáo viên chỉ chú trọng đến việc tìm hiểu nội dung bài, 
số lượng học sinh được đọc trong lớp ít. Do đó các em chưa biết khi nào đọc lên giọng, 
hạ giọng, khi nào nhấn giọng từ ngữ. Nhất là khi đọc lời các nhân vật chưa thể hiện 
được tính cách của các nhân vật.
 - Thực tế ở giờ dạy tập đọc, giáo viên dành thời gian cho việc luyện đọc của học 
sinh còn ít, còn áp đặt cách đọc cho các em, học sinh phải đọc một cách thụ động. Nên 
bản thân học sinh tự cho rằng mình đã đọc thông thạo, do đó không chú tâm rèn kĩ năng 
đọc lưu loát, đọc diễn cảm. Giáo viên ít tổ chức, ít gợi ý để học sinh khám phá tìm hiểu 
cách đọc dẫn đến hiệu quả đạt được trong giờ tập đọc chưa cao.
 - Chưa chú ý đến phương pháp dạy học mới. Đó là giáo viên chỉ là người gợi ý, 
dẫn dắt, còn học sinh sẽ là người chủ động tìm ra cách đọc đúng, đọc hay. Do đó việc 
rèn cho học sinh có thói quen nhận xét bạn đọc đúng hay sai để sửa cho bạn và điều 
chỉnh mình khi mình đọc sai là việc làm cần thiết. 
 - Chưa chú ý nhiều đến việc cho học sinh luyện đọc theo nhóm nên trong giờ học 
còn nhiều em chưa được đọc.
 III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
 1. Chuẩn bị cho việc dạy - đọc diễn cảm
 a. Đối với Giáo viên:
 * Phân loại học sinh theo nhóm đọc: 
 Sau khi nhận lớp, tôi đã cho lớp ổn định tổ chức, qua tìm hiểu, điều tra để nắm 
chắc đối tượng học sinh, sau đó tiến hành lựa chọn, phân loại học sinh theo kĩ năng đọc 
gồm 3 đối tượng sau:
 - Đối tượng 1: Học sinh biết đọc diễn cảm.
 - Đối tượng 2: Học sinh đọc to rõ, lưu loát chưa diễn cảm.
 - Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, ấp úng, phát âm chưa chuẩn (hoặc đọc to nhưng 
còn sai từ).
 Dựa vào đó tôi đã sắp xếp chỗ cho những học sinh yếu ngồi cạnh những em đọc 
khá để tạo thành những đôi bạn cùng tiến. Tiếp theo tôi giới thiệu với các em cấu tạo 
chương trình phân môn Tập đọc để các em nắm được các chủ điểm chính trong từng học 
kì và cả năm học, đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về việc rèn kĩ năng đọc 
đúng, đọc diễn cảm. * Hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng các kí hiệu để dựa vào đó luyện đọc cho 
đúng và diễn cảm.
 Cụ thể: 
 / Ngắt lấy hơi
 Nhấn giọng
 Nhấn giọng, kéo dài hơi
 Cao giọng
 Vắt dòng thơ trên với dòng thơ dưới
 Kéo dài và hạ giọng ở cuối câu
 b. Đối với học sinh:
 * Tư thế đọc
 - Khi ngồi đọc: cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách khoảng từ 30 - 
35cm, cổ và đầu thẳng. 
 - Khi đứng đọc: Tư thế thoải mái, hai tay cầm sách cách mắt khoảng 30cm. 
 - Khi đọc phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp thì sẽ không bị ngắc ngứ, thừa hoặc 
thiếu chữ. 
 * Có ý thức tự đọc
 - Yêu cầu học sinh đọc kĩ trước bài ở nhà, có đọc trước bài ở nhà học sinh mới 
biết được từ nào khó đọc, hay sai để đến lớp nghe cô hướng dẫn sửa chữa.
 - Học sinh thường xuyên rèn đọc đúng ở bất kì một văn bản nào nói chung hay 
trong các tiết tập đọc nói riêng. 
 - Cần có sự ham thích đọc, có ý thức tự đọc. Sưu tầm sách, báo, truyện để đọc. 
 2. Luyện đọc diễn cảm:
 Kĩ năng đọc diễn cảm các văn bản được luyện tập sau khi HS đã đạt được những 
yêu cầu tối thiểu về trình độ đọc (đọc đúng, rõ ràng, rành mạch, ), sau khi HS đã tìm 
hiểu bài và nắm được nội dung, ý nghĩa bài đọc. Muốn đọc diễn cảm một văn bản, phải 
lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù hợp với tình huống, thể hiện được tình cảm, 
thái độ, đặc điểm của nhân vật hoặc tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội 
dung miêu tả trong văn bản. Dạy HS đọc diễn cảm, GV cần thông qua thực hành luyện 
đọc để hướng dẫn các em từng bước đạt được yêu cầu theo các mức độ từ thấp đến cao.
 *Yêu cầu đọc diễn cảm:
 - Biết đọc nhấn giọng các từ ngữ quan trọng trong câu (từ ngữ gợi tả, gợi cảm, 
từ ngữ “chìa khoá” làm nổi bật ý chính, ). - Biết thể hiện ngữ điệu (sự thay đổi về tốc độ, cao độ, cường độ, trường độ, ) 
phù hợp với từng loại câu (câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến).
 - Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời nhân vật.
 - Biết đọc phân biệt lời nhân vật phù hợp với lứa tuổi, với tính cách của từng nhân 
vật (người già, trẻ em, người tốt, kẻ xấu, ).
 - Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với lứa tuổi, với tính cách của từng nhân vật 
(vui, buồn, trang nghiêm, giận dữ, ).
 Ngoài những điểm chung thống nhất về cách đọc, mỗi cá nhân còn có những nét 
sáng tạo và cảm thụ riêng. Do vậy, cách tốt nhất là GV tổ chức cho HS luyện đọc, “tự 
bộc lộ” (trên cơ sở đọc mẫu của GV và kết quả của việc tìm hiểu bài), qua đó chỉ dẫn, 
điều chỉnh về cách đọc sao cho diễn cảm; tránh tìm hiểu và phân tích quá sâu, chi tiết về 
cách đọc (xác định chỗ ngắt hơi, cao giọng, thấp giọng, ...), coi nhẹ thực hành luyện đọc 
và hoạt động đọc tự nhiên. Dạy đọc diễn cảm thiên về “lí thuyết”, không bắt nguồn từ sự 
hiểu biết sâu sắc và xúc cảm về bài đọc nhiều khi còn phản tác dụng, làm cho trẻ vì quá 
tập trung chú ý đến những dấu ngắt hơi, nhấn giọng đã xác định mà đọc rất gượng gạo, 
mất tự nhiên.
 * Biện pháp:
 Sau khi HS đã hiểu bài đọc, tôi yêu cầu HS lần lượt đọc thật tốt từng đoạn để nắm 
bắt khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của HS, nên tôi không bao 
giờ áp đặt sẵn giọng đọc của bài mà để HS tự nêu cách đọc.
 VD: Dạy bài Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân Tiếng Việt tập 2 trang 83
 Sau khi đã hiểu nội dung bài, tôi cho 4 HS đọc nối tiếp 4 đoạn, cả lớp chú ý nghe 
nhận xét: Giọng đọc của bạn nào đã phù hợp với nội dung bài ? (Hoặc cụ thể hơn đoạn 
văn vừa rồi được đọc với giọng như thế nào?).
 - HS nêu để tìm đúng giọng đọc toàn bài: Giọng kể.
 - Đoạn lấy lửa chuẩn bị nấu cơm: Giọng dồn dập, náo nức. 
 - Đoạn nấu cơm: Giọng khoan thai, thể hiện không khí vui tươi, náo nhiệt của hội 
thi. 
 - Đoạn cuối: Giọng tự hào về một nét đẹp cổ truyền trong sinh hoạt văn hoá của 
dân tộc.
 Sau khi HS tìm đúng giọng đọc của bài, của đoạn, tôi yêu cầu tìm từ ngữ cần 
nhấn giọng. Các câu hỏi gợi mở cần cụ thể như: Để nêu bật tính cách của nhân vật, bạn 
đã chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Lời nói của nhân vật cần đọc với giọng ra 
sao? Đọc các câu cảm, câu khiến, câu hỏi cần lưu ý gì? các dòng thơ nào cần đọc vắt 
để rõ ý của bài ?, 
 VD1: Dạy văn xuôi: Bài Cái gì quý nhất. 
 Sau khi HS tìm giọng đọc của bài (giọng kể chuyện), phân biệt lời của các nhân 
vật (Giọng Hùng, Quý, Nam: sôi nổi, hào hứng; giọng thầy giáo: ôn tồn,chân tình), câu 
hỏi đọc cao giọng ở ý cần hỏi. Đọc diễn cảm bài được thể hiện bằng các kí hiệu như 
sau: Một hôm, trên đường đi học về, Hùng, Quý và Nam trao đổi với nhau xem ở trên 
đời này, cái gì quý nhất.
 Hùng nói : “Theo tớ, quý nhất là lúa gạo. Các cậu có thấy ai không ăn mà sống 
được không ?”
 Quý và Nam cho là có lí. Nhưng đi được mươi bước, Quý vội reo lên: “Bạn Hùng 
nói không đúng. Quý nhất phải là vàng. Mọi người chẳng thường nói / quý như vàng là 
gì ? Có vàng là có tiền, có tiền sẽ mua được lúa gạo !”
 Nam vội tiếp ngay: “Quý nhất là thì giờ. Thầy giáo thường nói / thì giờ quý hơn 
vàng bạc. Có thì giờ mới làm ra được lúa gạo, vàng bạc !”
 Cuộc tranh luận thật sôi nổi, người nào cũng có lí, không ai chịu ai. Hôm sau, ba 
bạn đến nhờ thầy giáo phân giải.
 Nghe xong, thầy mỉm cười rồi nói:
 - Lúa gạo quý / vì ta phải đổ bao mồ hôi mới làm ra được. Vàng cũng quý / vì nó 
rất đắt và hiếm. Còn thì giờ đã qua đi / thì không lấy lại được, đáng quý lắm. Nhưng / 
lúa gạo, vàng bạc, thì giờ vẫn chưa phải quý nhất. Ai làm ra lúa gạo, vàng bạc, ai biết 
dùng thì giờ ? // Đó chính là người lao động, các em ạ. Không có người lao động / thì 
không có lúa gạo, không có vàng bạc, nghĩa là tất cả mọi thứ đều không có, và thì giờ 
cũng trôi qua một cách vô vị mà thôi.
 VD2: Dạy bài thơ Hạt gạo làng ta 
 Tôi lưu ý HS: Giữa các dòng thơ nghỉ hơi như một dấu phẩy
 Hạt gạo làng ta
 Có vị phù sa 
 Của sông Kinh Thầy 
 Có hương sen thơm 
 Trong hồ nước đầy 
 Có lời mẹ hát 
 Ngọt bùi đắng cay...
 Hạt gạo làng ta 
 Có bão tháng bảy 
 Có mưa tháng ba 
 Giọt mồ hôi sa 
 Những trưa tháng sáu 
 Nước như ai nấu 
 Chết cả cá cờ 
 Cua ngoi lên bờ 
 Mẹ em xuống cấy... VD3: Dạy văn bản kịch: Bài Lòng dân 
 - Đây là vở kịch, tôi hướng dẫn các em chú ý phân biệt được đọc tên nhân vật 
(giọng bình thường) với lời nói của nhân vật và lời chú thích về thái độ, hành động của 
nhân vật (hạ thấp giọng).
 - Đọc đúng ngữ điệu phù hợp với tính cách của từng nhân 
 + Giọng cai và lính: hống hách, xấc xược
 + Giọng dì Năm và chú cán bộ: đoạn đầu giọng tự nhiên, ở đoạn sau dì Năm nhỏ, 
nỉ non khéo giả vờ than vãn khi bị trói, nghẹn ngào nói lời trăn trối với con khi bị dọa 
bắn chết.
 + Giọng An: giọng rất tự nhiên như một đứa trẻ đang khóc (vì tình huống nguy 
hiểm, em rất lo cho má).
 Cụ thể:
 Cai: (xẵng giọng) / Chồng chị à?
 Dì Năm: - Dạ, chồng tui.
 Cai: - Để coi. (Quay sang lính) / Trói nó lại cho tao /(chỉ dì Năm ). Cứ trói đi. 
Tao ra lịnh mà /( lính trói dì Năm lại ).
 An: (Ôm dì Năm, khóc oà) Má ơi, má !
 - Tạo điều kiện cho từng HS được thực hành luyện đọc diễn cảm toàn bài (theo 
cặp, theo nhóm) để các em rút kinh nghiệm; tổ chức cho HS thi đọc diễn cảm trước lớp 
để các em học tập lẫn nhau và được cô động viên, uốn nắn.
 - Hình thức tổ chức làm việc theo nhóm thường có tác dụng tích cực hoá hoạt 
động học tập của HS, tạo cơ hội cho từng HS được tham gia vào việc luyện đọc diễn 
cảm một cách hiệu quả. Bước đầu các em sẽ tự sửa được cho nhau. Khi cô tổ chức thi 
đọc diễn cảm trước lớp, các em ở dưới là giám khảo nghe, nhận xét xem bạn nào, nhóm 
nào đọc hay. Giáo viên cùng cả lớp động viên, khuyến khích học sinh đọc có tiến bộ để 
các em đọc ngày một tốt hơn. Cụ thể như sau:
 * Luyện đọc theo nhóm, tôi thường tiến hành như sau:
 - Nhóm đôi: 2 HS ngồi cùng bàn hoặc vị trí HS ngồi trước, sau.
 - Nhóm 3, 4, 5, 6: dựa vào nội dung của từng bài để chia nhóm cho phù hợp.
 Thường là các bài có nhiều nhân vật. Tôi thấy HS rất thích thú khi được nhập vai 
nhân vật đọc.
 * Tôi luôn cố gắng tạo không khí học vui vẻ để HS dễ tiếp thu cách đọc mẫu của
 cô, của bạn một cách tốt nhất.
 * Trong khi rèn đọc diễn cảm, tôi luôn lưu ý đến các đối tượng HS:
 - Đối với học sinh đọc yếu: Rèn từng bước, từ thấp đến cao. Cụ thể: 
 + Đọc phát âm đúng phụ âm đầu r-g, tiếng, từ
 + Đọc ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấy phẩy, giữa các cụm từ ở những câu dài. 
 + Đọc ngắt nhịp đúng các câu thơ.
 + Biết đọc nhấn giọng, thay đổi sắc thái giọng đọc phù hợp với văn cảnh và tính 
cách nhân vật. - Những HS rụt rè (thường đọc nhỏ), tôi luôn động viên, tuyên dương trước lớp 
kịp thời (dù các em đó chỉ cố gắng rất ít), dần dần những em này sẽ tự tin và đọc to, 
diễn cảm hơn.
 - Những HS khả năng tập trung, chú ý không bền lâu, tôi thường gọi đọc tiếp 
hoặc nhận xét bạn đọc.
 C. KẾT LUẬN:
 Sau quá trình giảng dạy, tôi đã rút ra bài học cho bản thân: 
 - Muốn rèn cho HS đọc đúng, đọc diễn cảm, trước hết việc đọc mẫu của GV phải 
hay, truyền cảm để thu hút được HS. Trước khi lên lớp giảng bài, giáo viên phải đọc bài 
nhiều lần, đọc thể hiện được cảm xúc của tác giả khi viết bài văn đó. 
 - Phải chú ý đến khâu rèn đọc cho học sinh, chú ý đến đối tượng học sinh đọc 
kém. Hướng dẫn tỉ mỉ từng từ ngữ, từng câu văn, đoạn văn, đoạn thơ. Quan tâm, theo 
dõi để kịp thời phát hiện lỗi sai của HS. Nhất là những tiết luyện đọc ở buổi hai. Giáo 
viên nên sửa, rèn dứt điểm cho học sinh phát âm sai phụ âm mà em đó hay đọc sai hoặc 
đọc chưa đúng.
 - Tham khảo nội dung sách hướng dẫn giảng dạy để lựa chọn nội dung, phương 
pháp, hình thức học tập cho phù hợp với đối tượng của lớp mình.
 - Sưu tầm đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh hoạ phục vụ cho bài dạy để học sinh 
hứng thú học tập, tiếp thu bài sâu hơn. 
 Tóm lại, để rèn đọc diễn cảm cho HS, người GV phải có lòng yêu nghề, mến trẻ. 
Việc đọc tốt sẽ giúp cho HS tự tin hơn trong học tập, không chỉ riêng môn Tiếng Việt 
mà tất cả các môn học khác đều cần đọc tốt, khả năng đọc thầm nhanh, nắm bắt thông 
tin chính xác sẽ giúp các em học ngày càng tốt hơn. 

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_d.docx