Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, làm nền tảng cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở. Trong những năm gần đây, nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X và những văn kiện khác của Nhà nước, của Bộ giáo dục và đào tạo cần phải nâng cao chất lượng giáo dục cho phù hợp với sự phát triển của đất nước để tạo ra những con người “năng động, sáng tạo, có năng lực để giải quyết vấn đề”.
Mặt khác, giáo dục tiểu học là nền móng đầu tiên giúp con người tồn tại và phát triển, trong đó môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng vì nó hình thành và phát triển cho học sinh khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ, giúp trẻ tiếp thu các môn học khác.
Tiếng Việt ở tiểu học gồm nhiều phân môn : tập đọc, luyện từ và câu, kể chuyện, chính tả, tập làm văn . Mỗi một phân môn đều có một chức năng, khi dạy ngữ văn ở nhà trường đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn mà tập đọc là một phân môn giữ vị trí không nhỏ.
Tập đọc là một phân môn mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy học nó còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng Việt cho học sinh ( về phát âm, từ ngữ, câu văn,.) kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm thẩm mĩ. Tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng giữ một nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ tập đọc, việc học sinh biết đọc đúng và diễn cảm bài văn, bài thơ sẽ tạo cho các em sự say mê hứng thu trong học tập và tích lũy một vốn kiến thức văn học đáng kể sau này cho các em.
MỤC LỤC Nội dung Trang A. MỞ ĐẦU 2 1. Lí do chọn đề tài 2 2.Đối tượng nghiên cứu 3 3.Mục đích nghiên cứu 3 4. Phương pháp nghiên cứu 3 B. NỘI DUNG PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI 5 1. Cơ sở lí luận 5 1.1. Cơ sở khoa học của đề tài nghiên cứu 1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu 5 5 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Về phía học sinh 2.2. Về phía giáo viên 2.3. Do các yếu tố khác 7 7 8 8 PHẦN 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH 1. Chuẩn bị cho việc dạy - đọc diễn cảm 1.1. Đối với Giáo viên 1.2. Đối với Học sinh 9 9 10 2. Luyện đọc đúng tiếng, từ, câu 2.1. Tìm hiểu nguyên nhân HS đọc sai tiếng, từ, câu 2.2. Biện pháp 10 11 11 3. Luyện đọc thầm (đọc hiểu bài) 13 4. Luyện đọc diễn cảm 4.1. Yêu cầu đọc diễn cảm 4.2.Biện pháp 15 15 16 PHẦN 3: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 20 C. KẾT LUẬN 21 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 22 A. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, làm nền tảng cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở. Trong những năm gần đây, nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X và những văn kiện khác của Nhà nước, của Bộ giáo dục và đào tạo cần phải nâng cao chất lượng giáo dục cho phù hợp với sự phát triển của đất nước để tạo ra những con người “năng động, sáng tạo, có năng lực để giải quyết vấn đề”. Mặt khác, giáo dục tiểu học là nền móng đầu tiên giúp con người tồn tại và phát triển, trong đó môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng vì nó hình thành và phát triển cho học sinh khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ, giúp trẻ tiếp thu các môn học khác. Tiếng Việt ở tiểu học gồm nhiều phân môn : tập đọc, luyện từ và câu, kể chuyện, chính tả, tập làm văn . Mỗi một phân môn đều có một chức năng, khi dạy ngữ văn ở nhà trường đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn mà tập đọc là một phân môn giữ vị trí không nhỏ. Tập đọc là một phân môn mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy học nó còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng Việt cho học sinh ( về phát âm, từ ngữ, câu văn,...) kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm thẩm mĩ. Tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng giữ một nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ tập đọc, việc học sinh biết đọc đúng và diễn cảm bài văn, bài thơ sẽ tạo cho các em sự say mê hứng thu trong học tập và tích lũy một vốn kiến thức văn học đáng kể sau này cho các em. Phân môn Tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục mĩ cảm, học sinh yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn chương . Tập đọc còn rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng và cả tư duy lôgíc. Giờ tập đọc ngoài việc dẫn dắt cho học sinh tìm nội dung để phát triển óc tổng hợp, tìm bố cục để phát triển óc phân tích, các em còn được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ . Phân môn Tập đọc còn được kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác của chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn được học, học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng, sinh động , được luyện tập về chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn. Ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng phân môn tập đọc có hai yêu cầu cơ bản là: Rèn kĩ năng tập đọc. Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn. Học phân môn Tập đọc, việc đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau, cảm thụ tốt giúp việc đọc đúng, diễn cảm tốt. Ngược lại đọc đúng và diễn cảm tốt giúp cho việc cảm thụ bài văn thêm sâu sắc. Học sinh có đọc đúng, đọc thông thạo và trên cơ sở đã hiểu nội dung câu thơ, câu văn, đoạn thơ, đoạn văn thì các em mới thể hiện được cảm xúc, tức là đã hiểu tường tận về nội dung và nắm được ý nghĩa giáo dục của bài . Điều đó khẳng định rằng trong tiết tập đọc lớp 5, việc rèn kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm cho học sinh là rất cần thiết. Trong tiết học, học sinh có đọc đúng, biết đọc diễn cảm thì viết chính tả, dùng từ, đặt câu mới đúng; viết tập làm văn mới hay. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập đọc, tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 đọc đúng, đọc diễn cảm” để nghiên cứu. 2. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp 5 và đặc biệt là học sinh lớp 5G - Trường tiểu học Cát Linh Một số biện pháp giúp HS lớp 5 đọc đúng, đọc diễn cảm. 3. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu: Phân môn Tập đọc lớp 5 Thời gian nghiên cứu: Từ năm học 2010 - 2011 đến nay 4. Mục đích nghiên cứu: + Tìm một số biện pháp rèn kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 + Khảo sát năng lực đọc của học sinh lớp 5 để tìm ra nguyên nhân và giải pháp rèn kĩ năng đọc qua mỗi tiết tập đọc. 5. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tìm đọc các tài liệu, giáo trình có nội dung rèn kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm cho học sinh. Phương pháp điều tra: Dự giờ, trao đổi với các bạn đồng nghiệp,học sinh về những khó khăn cũng như những thuận lợi khi thực hiện dạy và học trong các giờ học Tập đọc trên lớp. Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức cho học sinh thực hiện các yêu cầu của giải pháp đề ra, kiểm tra kết quả và tác dụng của giải pháp khi tiến hành . Phương pháp so sánh, đối chiếu : Tổ chức so sánh, đối chiếu kết quả trước và sau khi thực hiện giải pháp để thấy được kết quả cũng như hạn chế nhằm tìm ra hướng điều chỉnh, khắc phục hợp lí. B. NỘI DUNG PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận: 1.1. Cơ sở khoa học của đề tài nghiên cứu: Yêu cầu của môn tập đọc lớp 5 là: Củng cố kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các lớp dưới; tăng cường tốc độ đọc, khả năng đọc lướt để chọn thông tin nhanh; khả năng đọc diễn cảm. (Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của đọc, đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức (thông qua đó hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc, đọc thành tiếng và đọc thầm, chúng được rèn luyện đồng thời hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện trong một kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Đọc đúng là tiêu đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được.) Phát triển kĩ năng đọc - hiểu lên mức cao hơn: nắm và vận dụng được một số khái niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách, để hiểu ý nghĩa của bài và phát hiện một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ. Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình thành nhân cách con người mới. 1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu: Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc được những văn bản, văn chương hoặc các yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc thể hiện kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ giọng, để biểu đạt ý nghĩ và tình cảm của tác giả đã gửi gắm trong bài đọc đồng thời biểu hiện được sự thông hiểu cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát. Đọc diễn cảm chỉ có thể có được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc diễn cảm yêu cầu đọc đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm phù hợp với từng ý cơ bản của bài đọc, phù hợp kiểu câu, thể loại đọc có cảm xúc cao. Biết nhấn giọng ở từ ngữ biểu cảm gợi tả, phân biệt lời nhân vật. Để đọc diễn cảm, người ta phải làm chủ chỗ ngắt giọng. ở đây muốn nói đến kĩ thuật ngắt giọng biểu cảm, làm chủ tốc độ. Khi nói đến đọc diễn cảm, người ta thường nói về một số kĩ thuật như ngắt giọng biểu cảm, sử dụng tốc độ, cường độ, cao độ trường độ với ý nghĩa cảm xúc của bài. Để đạt được mức lí tưởng hướng dẫn cách đọc toàn bài bằng những kí tự kèm văn bản đọc như các kí tự âm nhạc thì còn cần một quá trình nghiên cứu dài lâu. Ở đây chúng ta chủ đề vào xác định sự tương hợp giữa các thông số âm thanh với ý nghĩa cảm xúc để hướng đến làm chủ những thông số âm thanh phổ biến cho đúng ý tình cảm các tác phẩm - đọc diễn cảm. Để đọc diễn cảm, người ta phải làm chủ được chổ ngắt giọng, ở đây muốn nói đến kĩ thuật ngắt giọng biểu cảm, làm chủ được tốc độ, làm chủ được cường độ giọng (đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay hạ giọng) và làm chủ tốc độ. - Ngắt giọng biểu cảm: Là chỗ ngừng lâu hơn bình thường hoặc chỗ ngừng không do lôgíc ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm gây ấn tượng về cảm xúc, ngắt giọng biểu cảm đối lập với ngắt giọng lôgíc là chỗ dừng để các nhóm từ trong câu ngắt giọng lôgíc hoàn toàn phụ thuộc vào ý nghĩa của quan hệ giữa cụm từ. Các dấu ngắt câu cũng là sự biểu hiện của ngắt giọng logíc cũng có khi sự ngừng giọng thể hiện một sự ngập ngừng này, người nghe đoán được có điều gì đó chưa được nói ra. Ngắt giọng biểu cảm là phương tiện tác động đến người nghe. Ngắt giọng lôgíc thiên về trí tuệ, ngắt giọng biểu cảm thiên về cảm xúc. Ngắt giọng biểu cảm là những chỗ ngừng, chỗ lắng, sự im lặng có tác dụng truyền cảm tập trung sự chú ý của người nghe và chỗ ngừng góp phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao. Ngắt giọng đúng và hay là đích của dạy học và cũng là một trong những phương tiện để dạy tiếp nhận, chiếm lĩnh văn bản được đọc. - Tốc độ: Tốc độ đọc chi phối sự diễm cảm có ảnh hưởng đến việc thể hiện ý nghĩa, cảm xúc. Trước khi nói đến việc làm như tốc độ để đọc diễn cảm thì cần nhắc lại rằng trong những kỹ năng cần luyện cho học sinh đọc nhanh là một phẩm chất của đọc chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng. Tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức bài đọc. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc. Khi đọc cho người khác nghe hiểu kịp được. Vì vậy đọc nhanh không phải là đọc liến thoáng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói. Khi nói, đọc trùng với tốc độ của lời nói thì ta chấp nhận tốc độ đọc phụ thuộc vào nội dung bài đọc. Tốc độ đọc truyện kể phải nhanh hơn đọc thơ trữ tình vì đọc thơ t ... mà để HS tự nêu cách đọc. VD: Dạy bài Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân Tiếng Việt tập 2 trang 83 Sau khi đã hiểu nội dung bài, tôi cho 4 HS đọc nối tiếp 4 đoạn, cả lớp chú ý nghe nhận xét : Giọng đọc của bạn nào đã phù hợp với nội dung bài ? (Hoặc cụ thể hơn Đoạn văn vừa rồi được đọc với giọng như thế nào?). - HS nêu để tìm đúng giọng đọc toàn bài: Giọng kể. - Đoạn lấy lửa chuẩn bị nấu cơm: Giọng dồn dập, náo nức. - Đoạn nấu cơm: Giọng khoan thai, thể hiện không khí vui tươi, náo nhiệt của hội thi. - Đoạn cuối : Giọng tự hào về một nét đẹp cổ truyền trong sinh hoạt văn hoá của dân tộc. 4.2.2. Sau khi HS tìm đúng giọng đọc của bài, của đoạn, tôi yêu cầu tìm từ ngữ cần nhấn giọng. Các câu hỏi gợi mở cần cụ thể như: Để nêu bật tính cách của nhân vật, bạn đã chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Lời nói của nhân vật cần đọc với giọng ra sao? Đọc các câu cảm, câu khiến, câu hỏi cần lưu ý gì ?, các dòng thơ nào cần đọc vắt để rõ ý của bài ?, VD1 : Dạy văn xuôi: Bài Cái gì quý nhất (Tiếng Việt tập 1 trang 85) Sau khi HS tìm giọng đọc của bài (giọng kể chuyện), phân biệt lời của các nhân vật (Giọng Hùng, Quý, Nam: sôi nổi, hào hứng; giọng thầy giáo: ôn tồn,chân tình ), câu hỏi đọc cao giọng ở ý cần hỏi. Đọc diễn cảm bài được thể hiện bằng các kí hiệu như sau: Một hôm, trên đường đi học về, Hùng, Quý và Nam trao đổi với nhau xem ở trên đời này, cái gì quý nhất. Hùng nói : “Theo tớ, quý nhất là lúa gạo. Các cậu có thấy ai không ăn mà sống được không ?” Quý và Nam cho là có lí. Nhưng đi được mươi bước, Quý vội reo lên : “Bạn Hùng nói không đúng. Quý nhất phải là vàng.Mọi người chẳng thường nói / quý như vàng là gì ? Có vàng là có tiền, có tiền sẽ mua được lúa gạo !” Nam vội tiếp ngay : “Quý nhất là thì giờ. Thầy giáo thường nói / thì giờ quý hơn vàng bạc. Có thì giờ mới làm ra được lúa gạo, vàng bạc !” Cuộc tranh luận thật sôi nổi, người nào cũng có lí, không ai chịu ai. Hôm sau, ba bạn đến nhờ thầy giáo phân giải. Nghe xong, thầy mỉm cười rồi nói : - Lúa gạo quý / vì ta phải đổ bao mồ hôi mới làm ra được. Vàng cũng quý / vì nó rất đắt và hiếm. Còn thì giờ đã qua đi / thì không lấy lại được, đáng quý lắm. Nhưng / lúa gạo, vàng bạc, thì giờ vẫn chưa phải quý nhất. Ai làm ra lúa gạo, vàng bạc, ai biết dùng thì giờ ? //Đó chính là người lao động, các em ạ. Không có người lao động / thì không có lúa gạo, không có vàng bạc, nghĩa là tất cả mọi thứ đều không có, và thì giờ cũng trôi qua một cách vô vị mà thôi. VD2 : Dạy văn xuôi: Bài Tiếng rao đêm (Tiếng Việt tập 2 trang 30) Gần như đêm nào tôi cũng nghe thấy tiếng rao ấy:“Bánhgiòòò!” Tiếng rao đều đều, khàn khàn kéo dài trong đêm khuya tĩnh mịch, nghe buồn não ruột. Rồi một đêm, vừa thiếp đi, tôi bỗng giật mình vì những tiếng la: “ Cháy! Cháy nhà !” Rồi từ trong nhà, vẫn cái bóng cao, gầy, khập khiễng ấy / lom khom như đang che chở vật gì, phóng thẳng ra đường. Qua khỏi thềm nhà, người đó vừa té quỵ thì một cây rầm sập xuống. Mọi người xô đến. Ai nấy bàng hoàng / vì trong cái bọc chăn vương khói mà người ấy đang ôm khư khư là một đứa bé mặt mày đen nhẻm, thất thần, khóc không thành tiếng. Mọi người khiêng người đàn ông ra xa. Người anh mềm nhũn. Người ta cấp cứu cho anh. Ai đó thảng thốt kêu: “Ô / này!”, rồi cầm cái chân cứng ngắc của nạn nhân giơ lên: thì ra là một cái chân gỗ! VD3: Dạy bài thơ Ê-mi-li, con (Tiếng Việt 5, tập 1 trang 49) Đọc diễn cảm khổ 3, 4 Ê-mi-li con ôi! Trời sắp tối rồi Cha không bế con về được nữa ! Khi đã sáng bùng lên ngọn lửa Đêm nay mẹ đến tìm con Con sẽ ôm lấy mẹ mà hôn Cho cha nhé Và con sẽ nói giùm với mẹ : Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn ! Oa-sinh-tơn Buổi hoàng hôn Ôi những linh hồn Còn, mất ? Đã đến lúc lòng ta sáng nhất ! Ta đốt thân ta Cho ngọn lửa sáng loà Sự thật. Nếu học sinh đọc chưa hay, tôi có thể đọc mẫu để HS nghe giọng đọc của cô tự điều chỉnh mình đọc đúng. VD3: Dạy bài thơ Hạt gạo làng ta (Tiếng Việt 5, tập 1 trang 139) Tôi lưu ý HS: Giữa các dòng thơ nghỉ hơi như một dấu phẩy Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi đắng cay... Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy... VD5: Dạy văn bản kịch Bài Lòng dân (Tiếng Việt tập 1 trang 24) - Đây là vở kịch, tôi hướng dẫn các em chú ý phân biệt được đọc tên nhân vật (giọng bình thường) với lời nói của nhân vật và lời chú thích về thái độ, hành động của nhân vật (hạ thấp giọng). - Đọc đúng ngữ điệu phù hợp với tính cách của từng nhân + Giọng cai và lính : hống hách, xấc xược + Giọng dì Năm và chú cán bộ: đoạn đầu giọng tự nhiên, ở đoạn sau dì Năm nhỏ, nỉ non khéo giả vờ than vãn khi bị trói, nghẹn ngào nói lời trăng trối với con khi bị doạ bắn chết. + Giọng An : giọng rất tự nhiên như một đứa trẻ đang khóc (vì tình huống nguy hiểm, em rất lo cho má). Cụ thể: Cai : (xẵng giọng) / Chồng chị à? Dì Năm : - Dạ , chồng tui. Cai : - Để coi. (Quay sang lính) / Trói nó lại cho tao /(chỉ dì Năm ). Cứ trói đi. Tao ra lịnh mà /( lính trói dì Năm lại ). An: (Ôm dì Năm, khóc oà) Má ơi, má ! 4.2.3. Tạo điều kiện cho từng HS được thực hành luyện đọc diễn cảm toàn bài (theo cặp, theo nhóm) để các em rút kinh nghiệm; tổ chức cho HS thi đọc diễn cảm trước lớp để các em học tập lẫn nhau và được cô động viên, uốn nắn. Hình thức tổ chức làm việc theo nhóm thường có tác dụng tích cực hoá hoạt động học tập của HS, tạo cơ hội cho từng HS được tham gia vào việc luyện đọc diễn cảm một cách hiệu quả. Bước đầu các em sẽ tự sửa được cho nhau. Khi cô tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp, các em ở dưới là giám khảo nghe, chấm, nhận xét xem bạn nào, nhóm nào đọc hay. Giáo viên cùng cả lớp động viên, khuyến khích học sinh đọc có tiến bộ để các em đọc ngày một tốt hơn. Cụ thể như sau: * Luyện đọc theo nhóm, tôi thường tiến hành như sau: - Nhóm đôi: 2 HS ngồi cùng bàn hoặc vị trí HS ngồi trước, sau. - Nhóm 3, 4, 5, 6: dựa vào nội dung của từng bài để chia nhóm cho phù hợp. Thường là các bài có nhiều nhân vật. Tôi thấy HS rất thích thú khi được nhập vai nhân vật đọc. * Tôi luôn cố gắng tạo không khí học vui vẻ để HS dễ tiếp thu cách đọc mẫu của cô, của bạn một cách tốt nhất. *Trong khi rèn đọc diễn cảm, tôi luôn lưu ý đến các đối tượng HS: - Đối với học sinh đọc yếu: Rèn từng bước, từ thấp đến cao. Cụ thể: + Đọc phát âm đúng phụ âm đầu n-l, tiếng, từ. + Đọc ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấy phẩy, giữa các cụm từ ở những câu dài. + Đọc ngắt nhịp đúng các câu thơ. + Biết đọc nhấn giọng, thay đổi sắc thái giọng đọc phù hợp với văn cảnh và tính cách nhân vật. - Những HS rụt rè (thường đọc nhỏ), tôi luôn động viên, tuyên dương trước lớp (dù các em đó chỉ cố gắng rất ít), dần dần những em này sẽ tự tin và đọc to, diễn cảm hơn. - Những HS khả năng tập trung, chú ý không bền lâu, tôi thường chỉ định đọc tiếp hoặc nhận xét bạn đọc. PHẦN 3: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Trong năm học 2011 - 2012, nhờ thực hiện các biện pháp rèn đọc nêu trên nên chất lượng đọc của HS lớp tôi đã có chuyển biến đáng kể. Tôi đã tiến hành khảo sát lần hai (Kiểm tra đọc định kì giữa HK 2) và thu được kết quả như sau: Kĩ năng đọc Số lượng Tỉ lệ Ghi chú Đọc nhỏ, ấp úng, phát âm chưa chuẩn 1 2 Đọc sai do bộ máy phát âm Đọc to nhưng còn sai từ (thêm - bớt từ) 0 0 Đọc to, lưu loát, rõ ràng nhưng chưa diễn cảm 26 50 Nhấn từ chưa rõ Đọc to, lưu loát, rõ ràng, diễn cảm tương đối tốt 25 48 Riêng văn bản kịch có nhiều nhân vật đọc phân biệt giọng chưa rõ Nếu tiếp tục kiên trì rèn đọc, cuối năm kết quả đọc của HS chắc chắn sẽ cao hơn thời điểm giữa HK 2. Có những HS đầu năm đọc nhỏ, ấp úng, đến nay đã rất thích được đứng lên đọc trước lớp. Đặc biệt, các em rất thích được đọc dưới hình thức đọc phân vai. C. KẾT LUẬN Sau quá trình nghiên cứu đề tài kết hợp với điều tra thực tế, tôi đã rút ra bài học cho bản thân và đồng nghiệp. - Muốn rèn cho HS đọc đúng, đọc diễn cảm, trước hết việc đọc mẫu của GV phải hay, truyền cảm để thu hút được HS. Trước khi lên lớp giảng bài, giáo viên phải đọc bài nhiều lần, đọc thể hiện được cảm xúc của tác giả khi viết bài văn đó. - Phải chú ý đến khâu rèn đọc cho học sinh, chú ý đến đối tượng học sinh đọc kém. Hướng dẫn tỉ mỉ từng từ ngữ, từng câu văn, đoạn văn, đoạn thơ. Quan tâm, theo dõi để kịp thời phát hiện lỗi sai của HS. Nhất là những tiết luyện đọc ở buổi hai. Giáo viên nên sửa, rèn dứt điểm cho học sinh phát âm sai phụ âm mà em đó hay đọc sai hoặc đọc chưa đúng. - Tham khảo nội dung sách hướng dẫn giảng dạy để lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức học tập cho phù hợp với đối tượng của lớp mình. - Sưu tầm đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh hoạ phục vụ cho bài dạy để học sinh hứng thú học tập, tiếp thu bài sâu hơn. Tránh dạy chay. - Buổi sinh hoạt chuyên môn thực sự hiệu quả nhằm nâng cao tay nghề cho giáo viên. Ngoài những nội dung cần thiết bồi dưỡng hàng tuần, các nhóm chuyên môn cần phân công giáo viên soạn kĩ bài khó, rồi đọc diễn cảm trước nhóm để cùng nhau trao đổi, nhận xét góp ý, phổ biến kinh nghiệm giữa các giáo viên với nhau, đặc biệt là các giáo viên đọc diễn cảm tốt. Đó là việc làm thiết thực nhất. Tóm lại, để rèn đọc đúng, đọc diễn cảm cho HS, người GV phải có lòng yêu nghề, mến trẻ. Việc đọc đúng sẽ giúp cho HS tự tin hơn trong học tập, không chỉ riêng môn Tiếng Việt mà tất cả các môn học khác đều cần đọc đúng, khả năng đọc thầm nhanh, nắm bắt thông tin chính xác sẽ giúp các em học ngày càng tốt hơn. Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi trong việc hướng dẫn HS lớp 5 đọc đúng, đọc diễn cảm, rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng xét duyệt, các bạn đồng nghiệp để tôi giảng dạy ngày một tốt hơn. Hà Nội ngày 3 tháng 4 năm 2012 XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Nguyễn Thị Ngọc Anh TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cơ sở ngôn ngữ và Tiếng Việt. Tác giả : Mai Ngọc Chừ - Hoàng Trọng Phiếm - NXB GD 2. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở tiểu học Tác giả : Trần Mạnh Hưởng - Lê Hữu Tỉnh - NXB GD 3. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học Tác giả : Lê Phương Nga - Lê Hữu Tỉnh - NXB ĐHSP Hà Nội 1 4. Phương pháp dạy học Tiếng Việt Tác giả: Nguyễn Trí - NXB GD 5. SGK Tiếng Việt lớp 5 - NXB GD. 6. SGV Tiếng Việt lớp 5 - NXB GD.
Tài liệu đính kèm: