Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi Chính tả phụ âm đầu

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi Chính tả phụ âm đầu

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

I. Lí do chọn đề tài.

Môn Tiếng Việt chiếm một vị trí rất quan trọng trong chương trình tiểu học. Nó chiếm phần lớn số lượng các tiết học của học sinh. Giáo viên tiểu học không chỉ dạy vần, từ ngữ, ngữ pháp,mà còn dạy cho học sinh nói, viết đúng tiếng việt chuẩn - chuẩn chính tả. Do đó phân môn chính tả chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong cơ cấu chương trình Tiếng Việt tiểu học. Chính tả cùng với tập viết, tập đọc, tập nói giúp cho người học chiếm lĩnh được Tiếng Việt văn hoá - công cụ để học tập, giao tiếp và tư duy. Do đó viết đúng chính tả giúp cho học sinh có điều kiện để sử dụng Tiếng Việt hiệu quả cao trong việc học tập các môn học khác, trong việc xây dựng văn bản.

Qua quá trình giảng dạy, từ thực trạng chính tả trong trường học ở địa phương mình, tôi thấy các em còn mắc rất nhiều lỗi chính tả. Nếu hiện tượng viết sai chính tả kéo dài sẽ dẫn đến việc các em nghe, nói, đọc, viết sai. Do đó tôi đã lấy việc tìm hiểu. “Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả về phụ âm đầu” cho học sinh làm đề tài nghiên cứu của mình.

 

doc 19 trang Người đăng phuonght2k2 Ngày đăng 15/03/2022 Lượt xem 275Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi Chính tả phụ âm đầu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Phần I
Những vấn đề chung
I. Lí do chọn đề tài.
Môn Tiếng Việt chiếm một vị trí rất quan trọng trong chương trình tiểu học. Nó chiếm phần lớn số lượng các tiết học của học sinh. Giáo viên tiểu học không chỉ dạy vần, từ ngữ, ngữ pháp,mà còn dạy cho học sinh nói, viết đúng tiếng việt chuẩn - chuẩn chính tả. Do đó phân môn chính tả chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong cơ cấu chương trình Tiếng Việt tiểu học. Chính tả cùng với tập viết, tập đọc, tập nói giúp cho người học chiếm lĩnh được Tiếng Việt văn hoá - công cụ để học tập, giao tiếp và tư duy. Do đó viết đúng chính tả giúp cho học sinh có điều kiện để sử dụng Tiếng Việt hiệu quả cao trong việc học tập các môn học khác, trong việc xây dựng văn bản.
Qua quá trình giảng dạy, từ thực trạng chính tả trong trường học ở địa phương mình, tôi thấy các em còn mắc rất nhiều lỗi chính tả. Nếu hiện tượng viết sai chính tả kéo dài sẽ dẫn đến việc các em nghe, nói, đọc, viết sai. Do đó tôi đã lấy việc tìm hiểu. “Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả về phụ âm đầu” cho học sinh làm đề tài nghiên cứu của mình.
II. Mục đích nghiên cứu.
Dựa trên cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn, đề tài sẽ chỉ rõ những loại chính tả cơ bản mà học sinh thường mắc phải. Đồng thời chỉ ra những nguyên nhân mắc lỗi và những biện pháp khắc phục.
III. Lịch sử vấn đề.
Bàn về vấn đề chuẩn chính tả Tiếng Việt, từ xưa có rất nhiều đề tài nghiên cứu , hội thảo khoa học, rất nhiều nhà nghiên cứu bàn về vấn đề này. Mặc dù khi đã là chuẩn chính tả thì chữ viết gọi là chuẩn ấy phải được tồn tại
 trong thời gian dài. Song khi ngữ âm phát triển thi nó có sự biến động nhất định. Vì thế việc chuẩn hoá chính tả luôn là vấn đề đang được quan tâm trong bất kì giai đoạn lịch sử nào.
IV. Phạm vi nghiên cứu.
Học sinh tiểu học thường mắc nhiều lỗi chính tả khác nhau: Lỗi sai về phụ âm đầu, lỗi sai về vần, lỗi sai về thanh điệu, âm đệm, âm cuối. Bằng trình độ hiểu biết và kinh nghiệm còn hạn chế của mình, với phạm vi của đề tài không cho phép nên tôi tập trung nghiên cứu lỗi chính tả về phụ âm đầu.
V. Đối tượng nghiên cứu.
 Lỗi chính tả phụ âm đầu.
VI. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp điều tra.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp thống kê.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
Phần II
Nội dung
I. Cơ sở lí luận.
1- Chính tả là gì?
Chính tả là hệ thống các qui tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ. Nói cách khác chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết được thừa nhận trong ngôn ngữ toàn dân. Nó là phương tiện thuận lợi cho việc lưu truyền thông tin, đảm bảo cho người viết và người đọc thống nhất những điều đã viết. 
Chính tá trước hết là sự qui định có tính chất xã hội bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không cho phép con người vận dụng qui tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo nhân.
Một ngôn ngữ văn hoá không thể không có chính tả thống nhất. Chính tả thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ mới không bị trở ngại giữa các địa phương trong cả nước, cũng như giữa các thế hệ đời trước với thế hệ đời sau.
Chính tả thống nhất là một trong những biểu hiện của trình độ văn hoá phát triển của một dân tộc.
2. Thế nào là chuẩn chính tả?
Thật vậy muốn thống nhất được chính tả thì phải có chuẩn chính tả. Chuẩn chính tả là việc chuẩn hoá hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Chuẩn chín tả phải được qui định rõ ràng, chi tiết tới từng từ của tiếng việt và phải được mọi người tuân theo.Vấn đề đặt ra là chuẩn chính tả phải được xây dựng sao cho hợp lý, có độ tin cậy và sức thuyết phục cao. Chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối. Chẳng hạn ta không thể viết là: ngề ngiệp, iêu gét, mà phải viết là: nghề nghiệp, yêu ghét.
Chuẩn chính tả có tính chất ổn định cao, rất ít thay đổi, thường giữ nguyên trong thời gian dài nên thường tạo thành thói quen, tạo nên tâm lí trong lối viết của người bản ngữ.
Mặc dù vậy, chuẩn chính tả không phải là bất biến. Nhưng khi chuẩn chính tả đã lỗi thời sẽ dần dần được thay thế bằng những chuẩn chính tả mới.
VD: Chuẩn chính tả cũ: đày tớ, trằm trồ.
Chuẩn chính tả mới là: đầy tớ, trầm trồ.
Cũng như chuẩn ngôn ngữ khác chuẩn chính tả là kết quả của sự lựa chọn giưa niều hình thức chính tả đang cùng tồn tại.
3. Một số vấn đề về tâm lí học và ngôn ngữ học liên quan đến việc dạy chính tả.
a- Về tâm lí.
Học sinh tiểu học thường hiếu động, chóng nhớ, chóng quên. Do đó giáo viên cần hình thành cho các em kĩ sảo chính tả một cách tự động hoá, không cần phải nhớ tới các qui tắc chính tả, không cần sự tham gia của ý chí. Để đạt được điều nay có thể tiến hành theo hai cách: Có ý thức và không có ý thức. Với cách không có ý thức thường tốn nhiều thời gian công sức, giáo viên phải luyện cho học sinh thường xuyên. Qua đó củng cố trí nhớ máy móc ở một mức độ nhất định.
Với cách có ý thức, giáo viên cần cho học sinh bắt đầu từ việc nhận thức các qui tắc, các “mẹo” luật chính tả. Nội dung kiến thức phải bắt đầu từ dễ đến khó, tránh nhàm chán mà phải học mà chơi - chơi mà học. Thông qua luyện tập dần dần hình thành những kĩ sảo chính tả bằng con đường có ý thức. Đó là con đường ngắn nhất, có hiệu quả cao. Cần vận dụng cả hai phương pháp để rèn chính tả cho học sinh tiểu học. Trong đó cách không có ý thức thường được sử dụng đối với các lớp đầu cấp, cách có ý thức thường sử dụng ở các lớp cuối cấp.
b- Về ngôn ngữ.
Chính tả tiếng việt là chính tả ngữ âm. Nghĩa là mỗi âm vị được ghi bằng một con chữ. Nói cách khác giữa cách đọc và cách viết nhìn chung thống nhất với nhau. Đọc sao viết vậy. Học sinh sẽ xác định cách viết đúng bằng việc tiếp nhận chính xác âm thanh của lời nói. Cơ chế của cách viết đúng là xác lập được mối quan hệ giữa âm thanh và chữ viết. Giữa tập đọc và viết chính tả có quan hệ mật thiết với nhau (chính tả nghe đọc) nhưng lại có ưu trình hoạt động trái ngược nhau. Nếu tập đọc là sự chuyển hóa văn bản viết thành văn bản âm thanh thì chính tả lại là sự chuyển hoá văn bản âm thanh thành văn bản viết. “Đọc có cơ sở là chính âm còn viết cơ sở chuẩn mực là chính tự”. Tuy chính tả tiếng việt là chính tả ngữ âm học, giữa cách đọc và cách viết không thống nhất với nhau là về nguyên tắc chung, nhưng trong thực tế sự biểu hiện của mối quan hệ giữa đọc (phát âm) và viết (viết chính tả) khá phong phú đa dạng. Bởi vậy chính tả tiếng việt kkhông hoàn toàn dựa vào cách phát âm thực tế của phương ngữ nhất định nào vì nó đều có những sai lệch so với chính âm. Do đó “không thể nghe như thế nào thì viết thế ấy”
Mặc dù chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học nhưng trong thực tế muốn viết đúng chính tả thì việc nắm nghĩa của từ là rất cần thiết. Đây là cơ sở giúp người học viết đúng chính tả.
4- Một số nguyên tắc chính tả tiếng việt.
Từ cơ sở tâm lí học và ngôn ngữ học đã nêu trên, để hạn chế được lỗi chính tả cho học sinh, người giáo viên cần nắm chắc, hiểu, vận dụng và giảng dạy cho học sinh một số nguyên tắc chính tả Tiếng Việt sau đây:
Một là : Chính tả ngữ âm
Theo nguyên tắc này, cách viết của từ phải biểu hiện đúng âm hưởng của từ: phát âm thế nào thì viết thế ấy.
 Giữa cách đọc và cách viết phải thống nhất với nhau. Được nghe đọc đúng thì học sinh sẽ viết đúng. Bởi vậy Tiếng Việt là chữ ghi âm vị nên nguyên tắc này là nguyên tắc cơ bản nhất. Nó thể hiện ở chỗ: cách viết của mỗi từ thể hiện đúng âm cần đọc của từ. Quan hệ giữa âm và chữ là quan hệ 1 - 1. Nguyên tắc này đòi hỏi giáo viên phải phát âm chuẩn thì học sinh mới viết đúng. Nếu với nguyên tắc này ở một số địa phương phát âm lệch chuẩn, học sinh không thể dựa hoàn toàn vào cách phát âm thực tế của địa phương nhất định nào đó vì phát âm sai lệch so với chính âm. Giáo viên phải sửa chữa, vạch rõ những cách phát âm sai lệch phương ngữ để các em hiểu rõ và tự sửa chữa.
Bắc bộ: Phụ âm đầu ch/tr; d/gi/r; c/k/q/l/n.
Trung bộ: sai thanh điệu: ?/~ (suy nghĩ, sạch sẽ)
Sai vần: iê/yê, ươ/ưu (con hươu/con hiêu, uống rượu/uống riệu.)
Nam bộ: sai vần: v/d (vô nam/dô nam), i/y.
Hay đồng hoá hai âm cuối: n và g (luôn luôn/luông luông); t và k (tuốt tuột/tuốc tuộc) (bay nhảy/bay nhải).
Hai là: Nguyên tắc chính tả ngữ nghĩa: chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học nhưng trong thực tế muốn viết đúng chính tả việc nắm nghĩa của từ là cơ sởgiúp người học viết đúng chính tả.
VD: Nếu giáo viên đọc một từ có hình thức ngữ âm là “za” thì học sinh có thể lúng túng, khó xác định chữ viết nhưng nếu đọc trọn vẹn là “gia đình”, “da thịt” hay “ra vào” thì các em đã hiểu nghĩa của các từ đó và viết đúng.
Ba là: Nguyên tắc chính tả có ý thức.
Là loại chính tả nhằm phát hiện ra các qui tắc chính tả trên cơ sở đó mà viết đúng chính tả. Học sinh cần nắm chắc một số qui tắc làm căn cứ để viết đúng các từ, các chữ nằm trong phạm vi qui tắc mà không cần gắng sức ghi nhớ cách viết của từng từ một. Dạy chính tả theo đường này có những thuận lợi sau:
+ Khi đã nắm được qui tắc chính tả các em sẽ nắm được cách viết đúng mà không phải ghi nhớ máy móc.
+ Rút ngắn được thời gian rèn luyện, nhanh chóng hình thành phát triển các kĩ năng, kĩ sảo chính tả.
+ Qua so sánh phân tích, đối chiếu, khái quát hoá, trừu tượng hoá, từ đó rút ra qui tắc chính tả, học sinh được rèn luyện khả năng tư duy.
VD1: Chữ viết thể hiện của âm vị “K” khi nó đứng trước các nguyên âm hàng trước (i, e, ê, yê) thì được viết tắt là “k”. Khi nó đứng trước các nguyên âm hàng sau (o, a, u, ô) thì được viết là “c”, khi nó đứng trước âm đệm “U” thì được viết là “q”.
VD2: Đứng trước các nguyên âm hàng trước (i, e, ê, yê) được viết là “gh”, âm vị “Y” được viết là”ngh”.
Đứng trước các nguyên âm hàng sau (a, ă, â) viết là “g”, âm vị “Y” viết là “ng”.
Từ cơ sở lí luận trên, để hạn chế lỗi chính tả cho học sinh, giáo viên cần năm chắc những nguyên tắc chính tả và phải có trình độ lí luận khoa học để áp dụng tốt vào thực tiễn.
II. Cơ sở thực tiễn.
1. Những trở ngại lớn của hiện tượng chính tả không có ý thức.
Bên cạnh điều kiện thuận lợi của chính tả ngữ nghĩa, chính tả có ý thức và chính tả ngữ âm, chính tả Tiếng Việt còn có hiện tượng không có ý thức. Đó là hiện tượng chính tả khá phức tạp. Người học phải thuộc các trường hợp chính tả bất qui tắc bằng cách ghi nhớ máy móc. Đó là cách viết theo thói quen, truyền thống lịch sử tạo nên hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán không gắn liền với qui luật, qui tắc nào.
VD: Phân biệt r /d / gi, s / x, tr / ch, n / l, ? / ~.
Ngoài ra học sinh còn sai chính tả do viết sai tuỳ tiện hoặc một âm vị được viết tuỳ tiện theo hai cách khác nhau:
Giải/dải, dò/giò, dàn/giàn, dây/giây, dăm/giăm.
 ... p cho học sinh.
Trên lớp giáo viên cần đưa ra nhiều loại bài tập rèn luyện, ghi nhớ chính tả công thức và hướng dẫn các em cách học thuộc công thức chính tả như:
- Khi đứng trước các nguyên âm hàng trước thì:
+ âm vị “k” có chữ thể viết hiện là “k”
+ âm vị “Y” có chữ viết thể hiện là “ngh”
+ âm vị “fv” có chữ viết thể hiện là “gh”
- Khi đứng trước các nguyên âm hàng sau: a, o, ô, ơ.
+ âm vị “k” có chữ viết thể hiện là “c”
+ âm vị “Y” có chữ viết thể hiện là “ng”
+ âm vị “fv” có chữ viết thể hiện là “g”
Đứng trước âm đệm có chữ viết thể hiện “u” thì âm vị”k” có chữ viết thể hiện là “q”
Mặt khác từ thực trạng mắc lỗi chính tả của học sinh địa phương mình tôi nhận thấy giáo viên cần phải dạy cho học sinh học cách phân biệt l/n như:
“N” không hoặc ít kết hợp với âm đệm. Chỉ có ở một số ít (noa, noãn) nhưng “L” lại kết hợp với âm đệm dễ dàng (loè loẹt, nở loét, loà xoà, loang lổ, loắt choắt, luẩn cuẩn, liên lụy, luyến tiếc)
	“N” xuất hiện trong các từ láy âm : no nê, nóng nảy, nao núng, còn “L” xuất hiện trong các từ láy vần: Lệt bệt, lộp độp, lờ đờ, lai rai, lim dim, lơ mơ.
	Bốn là : Ngoài hiện tượng chính tả có ý thức, chính tả Tiếng Việt còn có hiện tượng chính tả không có ý thức (bất quy tắc). Với hiện tượng chính tả
này giáo viên cần cho học sinh làm nhiều bài tập, phát huy tốt vai trò chủ động của học sinh. Với yêu cầu của bài tập có thể nhiều em có cách làm khác nhau. Để tôn trọng ý kiến cá nhân giáo viên cho các em phát biểu sau đó cả lớp cùng phân tích lựa chọn ý kiến đúng. Làm như vậy các em sẽ nhớ được lâu.
	Ngoài ra giáo viên cần hướng dẫn học sinh hình thành “Mẹo” chính tả.
	Ví dụ: Từ chỉ cây cối, con vật thường viết bằng phụ âm đầu “s” : sim, sồi, sấu, sến, sung, sò, sóc, sện, sắn .
	+ Những từ chỉ vật trong nhà thường được viết bằng phụ âm đầu là “ch” ; chén, chum, chĩnh, chổi, chiếu, chăn, chạn, chậu, chảo .
	Ngoài ra học sinh còn phải nhớ máy móc các từ tồn tại hai cách viết song song : rập rờn / dập dờn; sum suê / xum xuê .Tuy nhiên hướng dẫn học sinh ghi nhớ như vậy giáo viên phải cần nhiều thời gian đầu tư cho việc giúp học sinh hạn chế lỗi chính tả.
	Để rèn cho học sinh viết đúng chính tả không có ý thức trong cấu trúc trong mỗi tiết dạy chính tả giảo viên cần đầu tư thời gian cho việc luyện viết đúng bằng các hoạt động cụ thể đối với từng bài (bảng con, bảng lớp, giấy nháp, phiếu học tập) hay các trò chơi thì tìm tiếng có phụ âm ở đầu, vần, thanh cho trước, chữa lỗi viết sai.Nhằm hướng dẫn các em tập viết chính xác từ ngữ khó thì viết sai trong bài chính tả.
	Song song với các bước luyện viết đúng, sau khi học song viết bài chính tả giáo viên phải cho học sinh luyện tập thông qua phiếu bài tập.
	Ví dụ : Điền vào chỗ trống.
	- ch hay tr : iến tranh; ...ung thành; chiến ...ường
	- s hay x : ...ử lý; san ...ẻ ; ...ung ướng; ả thân
	- l hay n : ..lặng lẽ ; ...ôn ..ao ; ung inh ;...ao ...úng
	- c, k hay q : ...ấp ..ứu ; ..ĩu ..ịt ; ...uấn ...uýt
	- ng hay ngh : ....ào ...ạt ; ...e ...óng ; úng ...uẩy
	- g hay gh : e thuyền ;  ật gù ; bàn ...ế ; ...ồ ề
	- r/ d hay gi : a vào ; ạo ...ực ; ...ập ờn ; ...àn ...ụa
	...ực ...ỡ ; ận ỗi ; an ...íu; ...àm ...ăn
	Qua những bài tập tương tự như trên các em sẽ rèn được cách viết đúng những phụ âm đầu dễ mắc phải do đặc điểm phát âm địa phương. Đồng thời nó cung cấp và củng cố kiến thức chính tả theo chương trình của mỗi lớp.
	Ngoài biện pháp nêu trên trong khi dạy chính tả cho học sinh, giáo viên phải biết phối hợp nguyên tắc dạy chính tả có ý thức với dạy chính tả không có ý thức một cách hợp lý nhằm đạt tới một hiệu quả dạy học cao. Trong nhà trường việc sử dụng phương pháp có ý thức được coi là chủ yếu. Những phương pháp không có ý thức vẫn được khai thác và sử dụng hợp lý nhất là ở lớp đầu bậc tiểu học. Nó thường gắn với kiểu bài tập viết, tập chép, giúp học sinh nhanh chóng làm quen với hình thức của các con chữ (tự dạng), hình thức chữ viết của các từ. Đây là tiền đề xuất phát điểm cần thiết đối với học sinh.
	Phương pháp này phát huy tác dụng khi giáo viên hướng dẫn học sinh ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán, không gắn với một quy luật nào hay qui tắc nào (chính tả bất qui tắc)
	Năm là : Muốn hạn chế đến mức thấp nhất lỗi chính tả của học sinh, giáo viên cần dạy chính tả cho các em theo nguyên tắc: Phối hợp giữa nguyên tắc tích cực và tiêu cực để xây dựng cái đúng và loại bỏ cái sai
	Giáo viên hướng dẫn học sinh tự làm bài tập để hình thành kỹ xảo chính tả cho các em đồng thời đưa ra những trường hợp viết sai chính tả để hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi sai từ đó hướng các em đi đến cái đúng (chữa lại lỗi sai cho đúng)
	Việc hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả cần phải tiến hành đồng thời với việc hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi sai để loại bỏ lỗi sai sửa lại thành đúng.
	Ví dụ: Giáo viên có thể nêu ra những đoạn văn, đoạn thơ có nhiều từ viết sai để học sinh tự phát hiện, tìm nguyên nhân sai và chữa lại cho đúng.
	Phương pháp phối hợp này giúp học sinh phát triển óc phân tích, phân đoạn đồng thời kiểm tra củng cố được kiến thức chính tả cho học sinh.
	Sáu là : Đề học sinh viết đúng chính tả giáo viên hướng dẫn các em đưa vào nghĩa của từ. Đây là một đặc trưng rất quan trọng của chính tả Tiếng Việt
	Vì vậy trong một số cuốn sách hướng dẫn học sinh làm các bài tập về “Chính tả so sánh” tác giả đã chủ động cung cấp những thông tin cần thiết về ý nghĩa của từ cho học sinh lấy đó làm cơ sở, làm chỗ dựa để các em viết đúng chính tả các từ này.
	Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh các cặp từ:
	chú/ trú ; chung /trung (SGK Tiếng Việt 4) tác giả đã gợi ý :
	+ Phân biệt: chú / trú
	“trú” có nghĩa là “ở” , “ở tại, dừng lại hoặc lánh vào một nơi nào đó” : cư trú, tạm trú, ngoại trú .
	“chú” có nghĩa là : “em trai bố” : chú bác, chú thím, ...
	 Kiểu bài chính tả trên được áp dụng rất thường xuyên chủ yếu ở các bài chính tả so sánh, phân biệt của sách Tiếng Việt lớp 4 và lớp 5.
	Mặt khác để học sinh có cơ sở dựa vào nghĩa của từ đó mà viết chính xác. Giáo viên cần chú ý khi đọc bài viết cho học sinh, nếu đọc câu dài thì phải ngắt từng phần, phải rõ nghĩa, không nên đọc từng từ riêng lẻ hoặc ngắt từ không rõ nghĩa, như thế các em sẽ thiếu chỗ dựa ngữ nghĩa để xác định cách viết.
	Ví dụ: Bài viết “Chú Chín” Tiếng Việt lớp 4 có câu “Mảnh mặt trời bẻ đôi đặt trên núi như một luồng lửa cháy rực rực qua sông” giáo viên có thể ngắt sau tiếng “núi”.
	Tóm lại : Muốn cho học sinh viết đúng chính tả thì việc nắm nghĩa của từ là rất quan trọng. Khi hiểu được nghĩa của từ các em sẽ có cơ sở để viết đúng chính tả.
 Phần III
Kết luận chung
Hiện nay việc kế thừa có chọn lọc phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp hiện đại là hoạt động hướng vào người học giúp học sinh tự giác tích cực, chủ động, sáng tạo lĩnh hội tri thức. Không thụ động nhất nhất lắng nghe ghi nhớ lời thầy. Giáo viên chỉ là người tổ chức điều khiển, hướng dẫn, uốn nắn dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh được tri thức, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo viết chính tả. Do đó giáo viên phải nghiên cứu nội dung tứng tiết dạy, phải điều tra, thống kê, phân loại các lỗi chính tả phổ biến của học sinh từng vùng miền, từng đối tượng. Để làm được điều đó giáo viên phải có lòng nhiệt tình cao tâm huyết với nghề nghiệp. Đặc biệt giáo viên phải không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy và vận dụng linh hoạt các phương pháp vào từng bài, từng đối tượng để kích thích được hứng thú học tập tạo cơ hội cho học sinh tiếp thu bài có hiệu quả. Thực tế cho thấy rằng: Lời nói tồn tại ở cả hai dạng “Nói và Viết” hai dạng lới nói này có liên quan mật thiết tác động qua lại lẫn nhau. Muốn học sinh nói chuẩn (chuẩn chính âm) và viết đúng (chuẩn chính tả), khi dạy chính tả ngoài nguyên tắc đặc thù, giáo viên phải dạy theo đúng các nguyên tắc chính tả. Bởi nguyên tắc chính tả là cơ sở cho việc tổ chức dạy học chính tả. Là nhân tố quyết định sự thành bại của quá trình dạy chính tả nói riêng và quá trình dạy Tiếng Việt nói chung.
Việc rèn luyện sửa lỗi cho học sinh phải được tiến hành thường xuyên liên tục trong tất cả các môn học cũng như trong thực tế giao tiếp. Bởi : Có xuất phát từ thực tiễn nếu phản ánh đúng bản chất của việc dạy học chính tả mới phát huy được tác dụng thực sự. Trong lĩnh vực này giao tiếp là hoạt động thường ngày không thể thiếu của con người. Chỉ có trong giao tiếp thì 
các yếu tố ngôn ngữ mới bộc lộ hết đặc điểm của mình. Vì vậy trong dạy học cần phải hướng quá trình dạy chính tả vào giao tiếp để thực hiện mục đích của việc dạy chính tả. Dù dạy bất cứ yếu tố chính tả nào cũng phải hướng dẫn học sinh thấy chúng được sử dụng trong giao tiếp như thế nào và liên hệ với bản thân mình để có phương pháp tự sửa chữa. Đặc biệt giáo viên phải hướng dẫn cho các em có ý thức nói, viết chính tả ở mọi lúc, mọi nơi (ở trường cũng như giao tiếp ở gia đình và ngoài xã hội). Đó là quá trình “gắn Tiếng Việt với quá trình giao tiếp mà những nhà giáo dục đang quan tâm”.
Với trình độ còn hạn chế tôi đã nghiên cứu và hoàn thành đề tài song không khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong sự bổ sung, góp ý của các bạn đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn ./.
Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2011
 Người viết
 Nguyễn Thế Phương
 Tài liệu tham khảo
1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt
	Tác giả : Lê Phương Nga – NXB GD 1998
	2. Phương pháp dạy học Tiếng Việt 
	Tác giả : Nguyễn Trí – NXB GD 1999
	3. Cơ sở ngôn ngữ và Tiếng Việt 
	Tác giả : Mai Ngọc Chừ – Hoàng Trọng Phiếm – NXB GD 1997
	4. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở tiểu học
	Tác giả : Lê Hữu Tỉnh – Trần Mạnh Hưởng – NXB GD 2000
	5. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học
	Tác giả : Lê Phương Nga – Lê Hữu Tỉnh – NXB ĐHSP Hà Nội 1 1995
	6. SGK Tiếng Việt lớp 2, lớp 3, lớp 4 , lớp 5 – NXB GD. 
	7. Giáo trình học môn học ngữ âm 
Mục lục
Nội dung
Trang
Phần I: Những vấn đề chung.
1
I. Lý do chọn đề tài.
1
II. Nhiệm vụ chọn đề tài.
1
Lịch sử vấn đề.
1
IV. Phạm vi nghiên cứu.
2
V. Phương pháp nghiên cứu.
2
Phần II: Nội dung.
3
I. Cơ sở lí luận.
3
1. Chính tả là gì.
3
2. Thế nào là chuẩn chính tả.
3
3. Một số vấn đề tâm lí học và ngôn ngữ học liên quan đế việc dạy chính tả. 
4
3.1.Về tâm lí học.
4
3.2.Về ngôn ngữ học.
5
3.3. Một số nguyên tắc chính tả Tiếng Việt.
6
II. Cơ sở thực tiễn.
7
1. Những trở ngại lớn của hiện tượng chính tả không có ý thức
7
2. Kết quả khảo sát.
8
- Nguyên nhân.
12
- Biện pháp.
 15
Phần III: Kết luận chung.
18

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nham_han_che_loi_chin.doc