Sáng kiến kinh nghiệm một số kinh nghiệm giúp hs lớp 5 phân biệt từ đồng nghĩa - Từ nhiều nghĩa-từ đồng âm

Sáng kiến kinh nghiệm một số kinh nghiệm giúp hs lớp 5 phân biệt từ đồng nghĩa - Từ nhiều nghĩa-từ đồng âm

I-ĐẶT VẤN ĐỀ

 1-Cơ sở lí luận :

 Bước sang thế kỉ XXI , điều kiện kinh tế xã hội nước ta có những thay đổi lớn. Đất nước bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá .Cơ cấu kinh tế, trình độ phát triển sản xuất ,khoa học kĩ thuật, nhu cầu xã hội thu nhập quốc dân có những bước phát triển quan trọng .Vấn đề hội nhập, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc , vấn đề về kinh tế tri thức, công nghệ thông tin, xu hướng quốc tế hoá trong kinh tế đang thường xuyên đặt ra và ngày càng cấp bách .Những thay đổi đó trong kinh tế xã hội , trong giáo dục dẫn tới những yêu cầu đòi hỏi trong việc dạy Tiếng Việt nói chung và dạy tiếng mẹ đẻ nói riêng . Đối với môn Tiếng Việt trong nhà trường tiểu học nó không thể là bản sao từ chương trình khoa học Tiếng Vịêt.Vì nhà trường có nhiệm vụ riêng của mình .Nhưng với tư cách là một môn học độc lậpTiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức về hệ thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp khả năng biểu cảm của ngôn ngữ quy tắc họat động của ngôn ngữ ) Đồng thời hình thành cho HS kĩ năng giao tiếp( Nghe, nói, đọc, viết).Ngoài ra Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy cho nên nó còn có chức năng kép mà các môn học khác không có được, đó là: Trang bị cho HS một số công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường .Tiếng Việt là công cụ để học các môn học khác ; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là phương tiện là điều kiện thiết yếu của qúa trình học tập .Bên cạnh chức năng giao tiếp , tư duy ngôn ngữ còn có chức năng quan trọng nữa đó là thẩm mĩ , ngôn ngữ là là phương tiện để tạo nên cái đẹp; hình tượng nghệ thuật.Trong văn học HS phải thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ vì thế ỏ trường tiểu học Tiếng Vịêt và văn học được tích hợp với nhau,Văn học giúp HS có thẩm lành mạnh, nhận thức đúng đắn, có tình cảm thái độ hành vi của con người Việt Nam hiện đại, có khả năng hòa nhập và phát triển cộng đồng .Mặt khác ngôn ngữ văn học còn là biểu hiện bậc cao của nghệ thuật ngôn từ .Cho nên dạy tiếng trong khi dạy tiếng trong khi dạy văn là cách bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ tối ưu cho người học . Dạy Tiếng Việt là đưa các em hoà nhập vào một môi trường sống của thời kì hội nhập . Ngược lại hiểu sâu sắc về Tiếng Việt lại tác động đến kĩ năng cảm thụ thơ văn của HS .Kết hợp giữa dạy văn và dạy tiếng sẽ tạo được hiệu quả cao giữa hai môn văn Tiếng Việt. Để đạt được hiệu quả giữa hai môn Văn-Tiếng Việt đòi hỏi người giáo viên cần phải dạy ở mọi nơi mọi lúc trong tất cả các môn học đặc biệt là môn Tiếng Việt.Phải có những phương

pháp dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn này phải có kiến thức Tiếng Việt vững vàng và không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ .

 

doc 14 trang Người đăng huong21 Lượt xem 893Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm một số kinh nghiệm giúp hs lớp 5 phân biệt từ đồng nghĩa - Từ nhiều nghĩa-từ đồng âm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HS LỚP 5 PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG NGHĨA - TỪ NHIỀU NGHĨA-TỪ ĐỒNG ÂM 
PHẦN I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 
I-ĐẶT VẤN ĐỀ 
	1-Cơ sở lí luận :
	Bước sang thế kỉ XXI , điều kiện kinh tế xã hội nước ta có những thay đổi lớn. Đất nước bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá .Cơ cấu kinh tế, trình độ phát triển sản xuất ,khoa học kĩ thuật, nhu cầu xã hội thu nhập quốc dân có những bước phát triển quan trọng .Vấn đề hội nhập, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc , vấn đề về kinh tế tri thức, công nghệ thông tin, xu hướng quốc tế hoá trong kinh tế đang thường xuyên đặt ra và ngày càng cấp bách .Những thay đổi đó trong kinh tế xã hội , trong giáo dục dẫn tới những yêu cầu đòi hỏi trong việc dạy Tiếng Việt nói chung và dạy tiếng mẹ đẻ nói riêng . Đối với môn Tiếng Việt trong nhà trường tiểu học nó không thể là bản sao từ chương trình khoa học Tiếng Vịêt.Vì nhà trường có nhiệm vụ riêng của mình .Nhưng với tư cách là một môn học độc lậpTiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức về hệ thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp khả năng biểu cảm của ngôn ngữ quy tắc họat động của ngôn ngữ ) Đồng thời hình thành cho HS kĩ năng giao tiếp( Nghe, nói, đọc, viết).Ngoài ra Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy cho nên nó còn có chức năng kép mà các môn học khác không có được, đó là: Trang bị cho HS một số công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường .Tiếng Việt là công cụ để học các môn học khác ; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là phương tiện là điều kiện thiết yếu của qúa trình học tập .Bên cạnh chức năng giao tiếp , tư duy ngôn ngữ còn có chức năng quan trọng nữa đó là thẩm mĩ , ngôn ngữ là là phương tiện để tạo nên cái đẹp; hình tượng nghệ thuật.Trong văn học HS phải thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ vì thế ỏ trường tiểu học Tiếng Vịêt và văn học được tích hợp với nhau,Văn học giúp HS có thẩm lành mạnh, nhận thức đúng đắn, có tình cảm thái độ hành vi của con người Việt Nam hiện đại, có khả năng hòa nhập và phát triển cộng đồng .Mặt khác ngôn ngữ văn học còn là biểu hiện bậc cao của nghệ thuật ngôn từ .Cho nên dạy tiếng trong khi dạy tiếng trong khi dạy văn là cách bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ tối ưu cho người học . Dạy Tiếng Việt là đưa các em hoà nhập vào một môi trường sống của thời kì hội nhập . Ngược lại hiểu sâu sắc về Tiếng Việt lại tác động đến kĩ năng cảm thụ thơ văn của HS .Kết hợp giữa dạy văn và dạy tiếng sẽ tạo được hiệu quả cao giữa hai môn văn Tiếng Việt. Để đạt được hiệu quả giữa hai môn Văn-Tiếng Việt đòi hỏi người giáo viên cần phải dạy ở mọi nơi mọi lúc trong tất cả các môn học đặc biệt là môn Tiếng Việt.Phải có những phương
pháp dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn này phải có kiến thức Tiếng Việt vững vàng và không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ .
2-Cơ sở thực tiễn 
	Thực tế ở đây đã cho thấy điều đó : Có nhiều GV không ngừng say sưa tìm tòi sáng tạo trong giảng dạy, đưa chất lượng ngày càng đi lên về mọi mặt, đáp ứng được với nhu cầu đòi hỏi của xã hội trong thời kì đổi mới; nhưng cũng thật đáng buồn vì còn có một số ít GV còn coi nhẹ vấn đề này .Mặt khác chương trình các môn học ở trường tiểu học hiện nay đã được sắp xếp một cách khoa học hệ thống song đối với học sinh tiểu học là bậc học nền tảng. Đến trường là là một bước ngoặt lớn của các em, trong đó họat động học là họat động chủ đạo, kiến thức các môn học về tự nhiên và xã hội chưa được bao nhiêu , vốn từ sử dụng vào trong cuộc sống để diễn đạt trình bày tư tưởng, tỉnh cảm của mình còn quá ít . Các em thường lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa-từ đồng nghĩa- từ đồng âm .Hơn thế nữa các em chưa ý thức được vai trò xã hội của ngôn ngữ , chưa nắm được các phương tiện kết cấu và quy luật cũng như họat động chức năng của nó .Mặt khác HS cần hiểu rõ người ta nói và viết không chỉ cho riêng mình mà cho người khác ngôn ngữ cần chính xác, rõ ràng đúng đắn và dễ hiểu , tránh làm cho người khác hiểu sai nội dung câu, từ, ý nghĩa diễn đạt .
Qua thực tế giảng dạy dự giờ đồng nghiệp ở trường sở tại ,trường bạn ,tôi nhận thấy việc dạy và học về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm còn có một số tồn tại sau : 
+GV truyền kiến thức về khái niệm từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm còn máy móc ,rập khuôn và sơ sài , lấy ví dụ mà chưa hiểu được bản chất của nó .Chỉ bó hẹp trong phạm vi SGK .Khi thoát khỏi phạm vi này thì HS hầu hết đều luống cuống và nhầm lẫn .
+Khi thể hiện tiết dạy hầu như GV chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá, giỏi , còn lại đa số HS khác thụ động ngồi nghe rồi một số em khác có muốn nêu cách hiểu của mình về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm cũng sợ sai lệch, từ đó tạo nên không khí một lớp học trầm lắng, HS làm việc tẻ nhạt , thiếu hứng thú không tạo được hiệu quả trong giờ học .
+Trong những bài dạy về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm hầu như GV ít đọc tài liệu tham khảo, ít học hỏi và trao đổi với đồng nghiệp 
Phải chăng những tồn tại đó còn tiềm ẩn trong mỗi tiết dạy để rồi GV tự dấu đi những kiến thức tài năng sẵn có và những gì đã được học tập, lĩnh hội ở nhà trường sư phạm rồi dần dần đánh mất . Đứng trước thực trạng như vậy và rút kinh nghiệm qua 5 năm dạy-học lớp 5, năm nay tôi có : “Một số kinh nghiệm giúp HS lớp 5 phân bịêt từ nhiều nghĩa- từ đồng nghĩa, từ đồng âm” .Nhằm giúp học sinh tháo gỡ những lầm lẫn giữa các từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm tạo nền tảng để các em học tốt môn Tiếng Vịêt .Tuy là bước đầu nhưng tôi mạnh dạn nêu lên và mong được sự ủng hộ quan tâm, đóng góp của các bạn đồng nghiệp để tôi được hòan thiện hơn về kinh nghiệm này .
II-MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 
Tôi chọn đề tài này nghiên cứu với mục đích :
-Giúp học sinh tháo gỡ những nhầm lẫn giữa các từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm .Góp phần làm giàu thêm vốn từ cho HS .
	-Giúp học sinh thiết lập mối quan hệ của từ với sự vật và tác được ý nghĩa từ vựng của từ khỏi sự vật được biểu thị bởi từ .
	-Giúp HS có năng lực sử dụng từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm trong sinh sản văn bản bằng hình thức nói họăc viết, để từ đó các em sử dụng được Tiếng Việt văn hóa làm công cụ giao tiếp tư duy
	III-KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
	1-Khách thể nghiên cứu 
	Việc dạy từ nhiều nghĩa- từ đồng nghĩa - từ đồng âm ỏ nhà trường tiểu học .
	2-Đối tượng nghiên cứu 
	Một số kinh nghiệm giúp HS phân bịêt về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm 
	IV-NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 
	1-Nghiên cứu vấn đề lí luận 
	2-Nghiên cứu thực trạng và đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm cho HS .
	3-Rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc dạy-học từ nhiều nghĩa -từ đồng nghĩa - từ đồng âm 
	V-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
	-Phương pháp điều tra.
	-Phương pháp trắc nghiệm 
	-Phương pháp nghiên cứu sản phẩm 
	-Phương pháp tổng kết kinh nghiệm 
PHẦN II- NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
I-NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 
1-Nguyên tắc dạy học 
a)Khái niệm : Nguyên tắc dạy học là những luận điểm cỏ bản có tính quy luật của lí luận dạy- học, có tác dụng chỉ đạo tòan bộ tiến trìn giảng dạy và học tập phù hợp với mục đích dạy-học nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy-học .
b)Nguyên tắc đồng bộ : Đây là nguyên tắc đòi hỏi người giáo viên trong việc dạy từ nhiều nghĩa- từ đồng nghĩa - từ đồng âm là phải tiến hành ở mọi nơi trong tất cả các môn học .Dạy từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa -từ đồng âm phải trở thành một bộ phận không thể thiếu được của mỗi giờ Tiếng Việt , đặc biệt là phần dạy về từ vựng Tiếng Việt cần chú trọng đi sâu về bản chất của từ nhiều nghĩa –từ đồng nghĩa - từ đồng âm.
c)Nguyên tắc thực hành : Đòi hỏi họat động ngôn ngữ thường xuyên , đó là những bài tập miệng , bài viết trình bày ý nghĩs, ứng dụng lí thuyết vào thực hành vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể của ngữ pháp, chính tả, tập làm văn .Dạy từ nhiều nghĩa -từ đồng nghĩa - từ đồng âm phải gắn làm giàu những biểu tượng tư duy bằng con đường quan sát trực tiếp và thông qua những mẫu lời nói , hội thoại 
d)Nguyên tắc cụ thế : HS tiểu học còn nhận thức theo kiểu “trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng , từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn nên giai đoạn đầu khi giới thiệu về từ nhiều nghĩa, từ đồng nghĩa ,từ đồng âm cần phải tác động bằng kích thích vật thật và bằng lời .Mặt khác các em cần được nghe, thấy, phát âm và viết từ mới để các em nói thành tiếng hoặc nói thầm đều do chúng quan sát được.
e)Nguyên tắc tính đến đặc điểm của từ trong hệ thống ngôn ngữ 
 	Nghĩa là khi dạy từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa- từ đồng âm cần được trình bày như là việc thiết lập quan hệ giữa từ và yếu tố hiện thực , quan hệ giữa từ với một lớp sự vật cùng loại được biểu thị bởi từ . Đó là hai mặt hình thức và nội dung của tín hiệu từ, hai mặt này gắn chặt với nhau , tác động lẫn nhau, phải làm cho HS nắm vững hai mặt này và mối tương quan giữa chúng .
2-Phương pháp dạy -học 
a)Khái niệm : Phương pháp dạy-học là tổ hợp cá cách thức họat động của thầy và trò trong quá trình dạy -học dưới sự hứong dẫn chỉ đạo của thầy nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học 
b)Các phương pháp dạy-học cơ bản 
-Phương pháp thuyết trình 
-Phương pháp đàm thoại 
-Phương pháp trực quan 
-Phương pháp thực hành luyện tập 
II-THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU 
1-Đặc điểm địa phương 
 	Địa phương là một xã miền núi nên HS trường tôi hầu hết là con em có hoàn cảnh kinh tế gia đình còn khó khăn , điều kiện học tập của con em còn thấp , đặc bịêt sự quan tâm của phụ huynh còn hạn chế, phần nào làm ảnh hưỏng đến kết quả học tập của học sinh 
2-Đặc điểm của nhà trường
Năm học 2006- 2007 Trường tiểu học Đức Đồng có 487 học sinh với tổng số 23 cán bộ giáo viên . Ban giám hiệu vững về chuyên môn, có bề dày kinh nghiệm trong giảng dạy và nhiều giáo viên là giáo viên giỏi huyện, 3 năm liền có giáo viên giỏi tỉnh , đã có nhiều tiết thao giảng về từ nhiều nghĩa- từ đồng nghĩa- từ đồng âm song do địa bàn miền núi phần nào còn có nhiều hạn chế như : các tài liệu tham khảo còn thiếu, các phương pháp dạy-học chưa đầy đủ phần nào ảnh hưởng đến chất lượng dạy- học trong nhà trường 
3-Đặc điểm của lớp 
Năm học 2006 – 2007 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5B là lớp có trình độ nhận thức không đồng đều ( có nhiều HS khá, giỏi nhưng cũng có không ít HS yếu kém tư duy chậm ,Một số em “thiểu năng trí tuệ bẩm sinh”) .Một số phụ huynh thiếu sự quan tâm đến việc học của con cái, số lượng HS đông ý thức học của một số HS còn yếu .Tuy vậy tôi vẫn mạnh d ... ghĩa gốc của từdưới dạng các nét nghĩa trở thành cơ sở để tự phát triển thêm nghĩa mới .Nhờ vào quan hệ liên tưởnhg tương đồng (ẩn dụ) và tương cận ( hoán dụ )người ta liên tưởngtừ sự vật này đến sự vật kia trên những đặc điểm, hình dáng , tính chất giống nhau hay gần nhau giữa các sự vẩt ấy .Từ chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành động này (nghĩa 1) chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất, hành động khác nghĩa ( nghĩa2), quan hệ đa nghĩa của từ nảy sinh từ đó .
	Ví dụ : Chín: (1) chỉ quả đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ phát triển cao nhất, hoàn thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng.
	 (2)Chỉ quá trình vận động, quá trinh rèn luyện từ đó, khi đạt đến sự phát triển cao nhất .( Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín, tài năng đã chín)
	 (3)Sự thay đổi màu sắc nước da .( ngượng chín cả mặt )
	 (4)Trải qua một quá trình đã đạt đến độ mềm .(cam chín).
	Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa , trước hết phải, miêu tả thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa .Nghĩa của từ phát triển thường dựa trên hai cơ sở :
	+Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có hai dạng sau : 
	-Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật, hiện tượng hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương quan về hình dáng.
	Ví dụ : Mũi1 ( mũi người) và Mũi2( mũi thuyền) :Miệng1 ( miệng xinh) và miệng2( miệng bát)
	Dạng 2 : Nghĩa của từ phát triểm trên cơ sở ẩn dụ về cách thức hay chức năng, của các sự vật, đối tượng .
	Ví dụ : cắt1 ( cắt cỏ) với cắt2 ( cắt quan hệ )
	Dạng 3 : Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của các sự vật đối với con người.
	Ví dụ: đau1 (đau vết mổ ) và đau2 (đau lòng )
	+Theo cơ chế hoán dụ có tác dụng.
	-Dạng1 :Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và toàn thể.
	Ví dụ: Chân1, Tay1, mặt1 là những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang chỉ cái toàn thể ( anh ấy có chân2 trong đội bóng Tay2 bảo vệ của nhà máy số ba có Mặt2 trong hội nghị)
	Dạng 2 : nghĩa của từ phát triển trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa.
	Ví dụ : Nhà1 Là công trình xâu dựng (Anh trai tôi đang làm nhà) 
	Nhà2 là gia đình ( Cả nhà có mặt) 
	Ví dụ 2: Thúng1 : Đồ vật dùng để đựng đan bằng tre hoặc nứa( Cái thúng này đan khéo quá)
	Thúng2 : Chỉ đơn vị ( Hai thúng lúa)
	Dạng 3 : Nghĩa của từ phát triển dựa trên nguyên liệu hay công cụ với sản phẩm được làm ra từ nguyên liệu hay công cụ đó hoặc hành động dùng nguyên liệu hay công cụ đó .
	Ví dụ : Muối1 : Nguyên liệu ( Một kg muối) ; muối2: hành động làm cho thức ăn chín hoặc lên men ( Chị ấy muối dưa ngon lắm)
4.3Từ đồng âm : 
	a)Văn cảnh( ngữ cảnh) là tập hợp những từ đi kèm một từ nào đó tạo cho từ tính xác định về nghĩa .
	b)Họat động của từ đồng âm : 
	-Tạo ra những văn cảnh trong đó có nhiều từ đồng âm xuất hiện:
	Con ngựa đá con ngựa đá con ngựa đá không đá con ngựa .
	-Tạo ra những ngữ cảnh đan xen nhau trong đó có một yếu tố nào đó được hiểu gấp đôi .
	Bà già đi chợ cầu đông,
	Bói xem một qủalấy chồng lợi chăng.
	Thầy bói gieo quả nói rằng 
	Lợi thì có lợi nhưng răng không còn .
	-Tạo ra những ngữ cảnh trong đó chỉ có một yếu tố đồng âm xuất hiện nhưng nó lại được đi kèm với yếu tố khác, có tác dụng nhắc gợi nhau.
	Con công đi qua chùa kênh,Có nghe tiếng cồng nó kềnh cổ ra .
	Con cóc leo cây võng cách , nó rơi phải cọc nó cạch đến già .
	-Tạo ra ngữ cảnh trong đó chỉ có một yếu tố đồng âm xuất hiện được trong quan hệ với các yếu tố đồng nghĩa.
	1-nhớ nước đau lòng con quốc quốc 
	Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
	2-Cuốc xuống ao uống nước, Gà vào vườn ăn kê 
	3-Chuồng gà kê áp chuồng vịt 
	4-Trời mưa đất thịt trơn như mỡ 
	 Dò đến hàng nem chả muốn ăn
	5-Một chiếc cùi lim chân có đế 
	Ba vòng xịch sắt bước còn vương 
c)Nguyên nhân có hiện tượng đồng âm 
	-Sẵn có 
	-Vay mượn 
	-Từ đa nghĩa phát triển đến mức tối đa .
	Sau khi mở rộng cho HS một số khái niệm cơ bản cần thiết về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm tôi đã hướng dẫn HS so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa chúng .
	*Khác nhau :
Từ đồng nghĩa
Từ nhiều nghĩa
Từ đồng âm
Là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau .
Ví dụ : Siêng năng, chăm chỉ, cần cù ,...
Nghĩa của từ được phát triển dựa trên hai cơ sở :
-Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có hai dạng sau :
+D1:Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật hiện tượng hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương quan về hình dáng Ví dụ : Mũi1( mũi người), mũi2(mũi thuyền)
+D2: Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ về cách thức hay chức năng của các sự vật, đối tượng .Ví dụ: Cắt1( cắt cỏ), cắt2(cắt quan hệ)
D3:Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của các sự vật đối với con người Ví dụ: đau1(đau vết mổ), đau2(đau lòng)
-Theo cơ chế hóan dụ có các dạng:
+D1:Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và tòan thể Ví dụ : Chân1, tay1,mặt1 là những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang chỉ cái toàn thể (Anh ấy có Chân2 trong đội bóng ; Tay2 bảo vệ của nhà máy số ba có mặt2 trong hội nghị )
+D2: Nghĩa của từ phát triển trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa.Ví dụ :Nhà1là công trình xây dựng (Tôi đang làm nhà),Nhà2 là gia đình(Cả nhà ăn cơm )
D3:Nghĩa của từ phát triển dựa trên quan hệ nguyên liệu hay công cụ với sản phẩm làm ra từ nguyên liệu hay công cụ đó hoặc hành động dùng nguyên liệu hay công cụ đó .Ví dụ: Muối1 nguyên liệu( một kg muối);muối2hành động làm cho thức ăn chín hoặc lên men ( Chị ấy muối dưa rất ngon)
Cơ sở tạo ra từ đồng âm là do tính chất tiết kiệm
-Thường xẩy ra ở những từ có cấu trúc đơn giản
-Các từ đồng âm trong Tiếng Việt chỉ xẩy ra trong ngữ cảnh vì Tiếng Việt là ngôn ngữ không biến hình 
*Giống nhau : 
	Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm đều có hình thức âm thanh giống nhau 
	Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thường dễ nhầm lẫn :
	Ví dụ : ba: ba : (1) bố: Ba tôi rất thích đọc báo.
	 (2) số từ: Số ba là con số không may mắn .
Học sinh có thể nhầm lẫn từ “ba” là từ nhiều nghĩa vì có hình thức âm thanh giống nhau .Khi gặp trường hợp này tôi đã phân biệt để HS thấy được giữa các nét nghĩa của từ nhiều nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau còn ở đây các nét nghĩa không có quan hệ với nhau vì thế không phải là từ nhiều nghĩa 
	Trường hợp ví dụ trên là từ đồng âm .
Để giúp HS có thể phân biệt được là từ nhiều nghĩa hay là từ đồng âm cần giúp HS xác định quan hệ về các nét nghĩa chính xác (đối với từ nhiều nghĩa ) , nêu loại trừ được có quan hệ về các nét thì đó là từ đồng âm còn ngược lại nếu đồng âm nhưng có quan hệ về các nét nghĩa nữa thì đó là từ nhiều nghĩa 
5-Kết quả thu được 
	Năm học 2006-2007 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5B có 30 em học sinh .Tôi lần lượt sử dụng các giải pháp trên bằng cách lựa chọn và phân bố hợp lí theo từng nội dung của bài, lấy nhiều ví dụ minh họa để học sinh nắm được đặc điểm cơ bản của các loại từ trên từ đó có thể phân biệt và nhận dạng dễ dàng hơn trong khi làm bài tập .Tôi đã thu được kết quả
Thời điểm dạy và học
Học kì I
Giữa học kì II
Số học sinh phân biệt được từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm 
66,6%
90%
Số học sinh đạt điểm khá, giỏi .
33%
50%
	Năm học này học sinh lớp 5 thi học sinh giỏi huyện, tỉnh và tôi đã trực tiếp có trách nhiệm bồi dưỡng học sinh giỏi trên lớp ở các tiết tự học .Với sự nỗ lực của cô, trò nên trong đề thi chọn học sinh giỏi ở trường đi thi huyện có : 
	(1)Tìm 4 từ đồng âm và đặt câu với mỗi từ .
	(2)Viết một đoạn văn ngắn trong đó ít nhất có một từ mang nghĩa gốc và một từ mang nghĩa chuyển .
	Nhìn chung các em đã làm đúng và nhiều em viết được đoạn văn hay, đạt điểm khá cao, cả 5 HS lớp tôi đều được chọn vào đội tuyển dự thi HS giỏi huyện
	Năm học 2006-2007 ( tính đến hết tháng 4)lớp 5B có 30 em học sinh do tôi chủ nhiệm .Tôi đã vận dụng các biện pháp trên ngày càng nhuần nhuyễn hơn , thường xuyên tự tìm tòi và đọc tài liệu nên khi ra đề : 
	(1)Tìm những câu tục ngữ , thành ngữ, ca dao, câu thơ, câu đố ... có từ đồng âm .
	(2) Đặt câu với từ ăn: (ăn mang nghĩa gốc) và (ăn mang nghĩa chuyển ) 
Kết quả các em làm đã tăng lên rõ rệt .
	Tổng số bài trên trung bình : 28/30 em : đạt 93,3%
	Số bài khá, giỏi 	 : 14/30 em : đạt 46,6%
PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I-KẾT LUẬN 
	Để giúp HS phân biệt và làm đúng được yêu cầu của bài tập về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm trong quá trình dạy học – người giáo viên cần 
	-Giúp học sinh xác định rõ các đặc điểm, cấu tạo của chúng về hình thức và bản chất 
	-Khi dạy bài này “ từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm” giáo viên cần bổ sung định nghĩa về từ nhiều nghĩa nữa là : “Là từ dùng một hình thức âm thanh biểu thị nhiều ý nghĩa ,....chúng lập thành một trật tự, một cơ cấu nghĩa nhất định .
	-Phần từ đồng âm và từ nhiều nghĩa có nhiều từ học sinh dễ nhầm lẫn và khó xác định là đồng âm hay nhiều nghĩa giáo viên cần giúp các em nhấn mạnh ở khái niệm về từ đồng âm : Chúng giống nhau là có hình thức âm thanh giống nhau nhưng đối với từ đồng âm thì nghĩa của từ hoàn toàn khác nhau ; còn từ nhiều nghĩa thì ý nghĩa của các từ đó có quan hệ với nhau .Giáo viên chú ý hướng dẫn học sinh phân biệt nghĩa sau đó mới đưa ra kết luận .
	-Tạo mọi điều kiện giúp HS được bộc lộ cách hiểu của mình về từ nhiều nghĩa và từ đồng âm 
	-Qua các bài tập học sinh thực hành về từ đồng âm từ nhiều nghĩa giáo viên cần cho các em tự kiểm tra, kiểm tra lẫn nhau về kết quả mình đã làm được .	Trên đây là một số giải pháp mà tôi đã áp dụng trong giảng dạy về từ đồng nghĩa, từ đồng âm và từ nhiều nghĩa và góp phần nâng cao hơn kết quả dạy-học môn Tiếng Việt .Qua đây tôi càng thấy rõ hơn về việc dạy -học bộ môn Tiếng Vịêt bởi nó góp phần vào sự hình thành nhân cách con người tòan diện trong thời kì mới, những chủ nhân tương lai xứng tầm với yêu cầu của một xã hội năng động, hiện đại .
Những kinh nghiệm của bản thân tôi trình bày ở trên chi là một khía cạnh nhỏ ,rất mong được sự góp ý bổ sung của các thầy, cô giáo cùng các bạn bè đồng nghiệp để bài học của tôi được đầy đủ hơn .
II-KIẾN NGHỊ 
	Với mục đích là nâng cao kết quả giảng dạy và hòan thành chuyên môn của người giáo viên tiểu học tôi xin có một số đề nghị sau: 
	-Mở lớp chuyên đề về phương pháp dạy phân môn Luyện từ và câu đối với “ Từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm”.
	-Cung cấp thêm cho các trường miền núi tài liệu tham khảo và thiết bị dạy học phù hợp /.
Hà Tĩnh, tháng 5 năm 2007

Tài liệu đính kèm:

  • docSANG KIEN KINH NGHIEM LOP 5 tv.doc