Đề tài:
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
MỞ ĐẦU:
Ngày 9 tháng 11 năm 2001 Bộ giáo dục và đào tạo đã ký quyết định số 43/2001 QĐ - BGD & ĐT ban hành chương trình tiểu học áp dụng thống nhất trong cả nước. Như vậy chương trình giáo dục phổ thông mới được triển khai vào những năm 2000 của thế kỷ XXI. Đối với bậc tiểu học chương trình lớp 1 mới được triển khai chính thức từ năm học 2002 - 2003.
Hệ thống giáo dục mới đóng góp vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho giai đoạn Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước và hội nhập hoá Quốc tế. Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII (6/1996) đã nhấn mạnh: ''Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá''. Vì vậy, đồng thời chăm lo tăng trưởng kinh tế, phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị một lớp người lao động có một hệ thống giá trị phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đó là: "Những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường và bảo vệ Tổ Quốc, Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là người thừa kế và xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Muốn vậy, đòi hỏi chúng ta phải đối mới giáo dục - đào tạo, trong đó đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nói chung và ở tiểu học nói riêng theo xu thế 4 trụ cột của giáo dục thể kỷ XXI do UNESCO đề xướng là "Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định mình" nhằm đáp ứng sự phát triển kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Đề tài: Những giải pháp nâng cao chất lượng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông Mở đầu: Ngày 9 tháng 11 năm 2001 Bộ giáo dục và đào tạo đã ký quyết định số 43/2001 QĐ - BGD & ĐT ban hành chương trình tiểu học áp dụng thống nhất trong cả nước. Như vậy chương trình giáo dục phổ thông mới được triển khai vào những năm 2000 của thế kỷ XXI. Đối với bậc tiểu học chương trình lớp 1 mới được triển khai chính thức từ năm học 2002 - 2003. Hệ thống giáo dục mới đóng góp vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho giai đoạn Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước và hội nhập hoá Quốc tế. Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII (6/1996) đã nhấn mạnh: ''Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá''. Vì vậy, đồng thời chăm lo tăng trưởng kinh tế, phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị một lớp người lao động có một hệ thống giá trị phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đó là: "Những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường và bảo vệ Tổ Quốc, Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là người thừa kế và xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Muốn vậy, đòi hỏi chúng ta phải đối mới giáo dục - đào tạo, trong đó đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nói chung và ở tiểu học nói riêng theo xu thế 4 trụ cột của giáo dục thể kỷ XXI do UNESCO đề xướng là "Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định mình" nhằm đáp ứng sự phát triển kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Chương I Cơ sở của việc nâng cao chất lượng, đổi mới chương trình giáo dục phổ thông Trường tiểu học Châu Phong II 1) Cơ sở lý luận: Trong phần này, xin trình bày những vấn đề trọng tâm về vị trí, mục tiêu của bậc học tiểu học, thực chất và ưu điểm của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. + Vị trí trường tiểu học: Trường tiểu học là cơ sở giáo dục của bậc tiểu học, bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục Quốc dân. Trường tiểu học có tư cách pháp nhân và con dấu riêng. + Mục tiêu giáo dục tiểu học: Nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học THCS (Điều 23 - Luật giáo dục sửa đổi 1998). + Nội dung đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông thực chất là đổi mới cả nội dung, chương trình, phương pháp (Cách dạy - Cách học - Nội dung dạy học). Chương trình mới của cả nước đã quan tâm đúng mức đến mục tiêu cần đạt, các năng lực cần phát triển ở học sinh, cách thức và phương tiện phát triển các năng lực đó, cách thức kiểm soát và đánh giá kết quả học tập của học sinh. Chương trình mới xây dựng cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI đều coi trọng thực hành, vận dụng, đổi mới nội dung, chương trình thường tinh giản, tập trung vào các kiến thức, kỹ năng cơ bản và thiết thực hơn, tích hợp được nhiều mặt giáo dục. Trong sách giáo khoa không chỉ nêu các kiến thức sẵn có mà trở thành tại liệu định hướng và hỗ trợ cho tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh trí thức mới và thực hành theo năng lực của người học. Các thông tin trong sách giáo khoa (qua kênh hình và kênh chữ) thường đa dạng, phong phú ... Khi triển khai thực hiện chương trình giáo viên được chủ động lựa chọn các nội dung và phương pháp thích hợp với từng đối tượng học sinh để tổ chức, hướng dẫn học sinh tự học, tự chiếm lĩnh, phát hiện tri thức mới. Hình thức dạy học thường linh hoạt, phối hợp giữa dạy học cá nhân và dạy theo nhóm, trong lớp hay ngoài lớp. Đây là điều căn bản khác với chương trình giáo dục toàn diện từ những năm 70 chỉ chú trọng dạy hai môn toán và tiếng việt chưa đảm bảo giáo dục toàn diện (nhất lại là đối với các vùng trường miền núi) nội dung chương trình mang nặng lý thuyết, thuyết giảng xa rời với thực tế. Trong khi chương trình mới bao gồm những nội dung cơ bản, toàn diện, có hệ thống trên quan điểm khoa học hiện đại. Nó vừa quan tâm đến phát hiện bồi dưỡng học sinh giỏi. Tóm lại những điểm mới căn bản và ưu điểm của chương trình tiểu học mới là: - Tinh giản những nội dung chiếm nhiều thời gian, bổ sung những nội dung cập nhật với cuộc sống hiện tại. Kết cấu nội dung các môn học và hoạt động theo hướng tích hợp để tránh quá tải với người học mà vẫn đảm bảo dạy được nhiều nội dung thiết yếu. - Tăng cường nội dung thực hành, vận dụng, đồng thời giảm nội dung lý thuyết khó và chưa cần thiết ở tiểu học. - Nội dung giáo dục gắn với đặc điểm vùng miền để tạo hứng thú học tập cho học sinh và làm cho nội dung giáo dục thiết thực hơn đối với người học. + Nâng cao chất lượng giáo dục: Chất lượng giáo dục đó là kết quả đạt được sau một quá trình giáo dục (quá trình giáo dục theo nghĩa rộng). Bao gồm cả về tri thức - đạo đức trong một con người. Quá trình giáo dục là một hệ thống xuyên suốt từ các cấp, bậc học cho đến quá trình tự giáo dục của chính mỗi chủ thể được giáo dục. ở bậc tiểu học, chất lượng giáo dục được đánh giá thường xuyên, hàng kì, hàng năm và phản ánh cụ thể ở kết quả cuối cùng của một năm học. Nâng cao chất lượng giáo dục, nghĩa là hiểu quả giáo dục năm sau phải cao hơn năm trước và bao gồm nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố như chất lượng giáo viên, chất lượng (văn hoá) học sinh và các mặt giáo dục khác. Giáo viên là nóng cốt có tầm quan trọng thúc đẩy hay kìm hãm chất lượng của nhà trường, còn học sinh là sản phẩm để đánh giá chất lượng giáo dục. + Đánh giá chất lượng giáo dục: Chình là việc đạt được mục tiêu đã đặt ra hay không, mục tiêu này phải được cụ thể hoá theo từng trường riêng biệt, phù hợp với đặc điểm địa phương mỗi trường, hoàn cảnh trường đóng dựa trên khung quy định mục tiêu chung của Bộ cho từng bậc học. Trong chất lượng giáo dục có chất lượng mũi nhọn, đội ngũ này rất có thể là những nhân tài cho đất nước, địa phương, đáp ứng cho thời kỳ mới, mở cửa hội nhập Quốc tế. Do đó đòi hỏi giáo dục phải quan tâm đến chất lượng giáo dục nhiều hơn trước hết là phục vụ cho chính quê hương, địa phương của mình. Nếu bậc học nền tảng (Bậc tiểu học) mà lơ là, chưa thấy hết vị trí, nhiệm vụ của mình thì làm sao nuôi dưỡng lên được những mầm xanh tương lai khỏe về trí lực, tốt về trí tuệ để cho các bậc học tiếp theo bồi dưỡng. Nhiều đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học đã cho thấy nhân tài có thể do bẩm sinh, do năng khiếu, do đào tạo, tự đào tạo và bồi dưỡng liên tục trong hoạt động thực tiễn mà trưởng thành. Trong mọi trường hợp công tác giáo dục và đào tạo có vai trò hết sức quan trọng, thậm chí có tính quyết định đối với sự trưởng thành của nhân tài. Điều này đòi hỏi các bậc học, trong đó, bậc tiểu học vẫn luôn luôn là bậc học nền tảng để hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn, lâu dài về đạo đức, trí tuệ. 2) Cơ sở thực tiễn: - Trước hết xin được trích dẫn mục tiêu của nhà trường đặt ra trong chiến lược đổi mới chương trình sách giáo khoa mới là: "Tiếp cận chiến lược đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, triển khai có chất lượng trong nhà trường; Bồi dưỡng và chuẩn hoá đội ngũ giáo viên. Đẩy lùi tình trạng học sinh không biết đọc, biết viết lên đọc thông, viết thạo dần dần tiếp cận với kiến thức khoa học. Xây dựng lại hệ thống các tổ chức trong trường và kết hợp với các tổ chức ngoài xã hội để hoàn thành nhiệm vụ giáo dục trong thời kỳ mới''. Mục tiêu đặt ra của nhà trường dược dựa trên cơ sở định hướng mục tiêu chung của Bộ và thực tiễn ở trường trong giai đoạn hiện nay. Chương II Thực trạng về chất lượng giáo dục ở trường tiểu học Châu phong II 1) Về truyền thống học: Trong lịch sử giáo dục ở Châu phong truyền thống hiếu học ở trong mỗi gia đình, dòng họ, bản, xã hầu như không có. Rất ít gia đình cho con em học hết chương trình cấp III, hành trình học tập của đại đa số học sinh chỉ hết cấp tiểu học (Ngoài một phần lớn bỏ học ngay từ cấp tiểu học). Nhiều gia đình mũ chữ hoàn toàn, việc học dường như chỉ nằm bên lề của cuộc sống mà mục đích chính vẫn chỉ là tìm cái ăn, cái mặc để tồn tại. 2) Chất lượng giáo viên: Đại bộ phận giáo viên là người bản địa, xuất phát đào tạo thấp từ nhiều hình thức, trình độ khác nhau như 3 + 4; 7 + 2; 7 + 3; ... phong trào dạy học trong nhà trường chưa có, giáo viên đến trường mới chỉ đủ quỹ thời gian của một công chức mà chưa sử dụng nó đúng chức trách, nhiệm vụ. Về phương pháp dạy rập khuôn chưa linh hoạt, nhạy bén để năm bắt cái mới, giáo viên trung thành tuyệt đối với sách hướng dẫn, dạy theo lỗi thuyết giảng "Thầy giảng - trò nghe". Để xẩy ra thực trạng này phải kể đến trách nhiệm của người quản lý - người chỉ đạo từ các cấp chưa kịp thời. Quản lý trường học chưa có biện pháp hữu hiệu, kế hoạch thiếu khoa học, sự quản lý lỏng lẻo. 3) Chất lượng học sinh: Yếu kém từ những năm trước, số học sinh không biết đọc, biết viết tăng dần lên theo số năm học. Số học sinh bỏ học cũng ngày càng nhiều. Tình trạng "Ngồi nhầm lớp" dường như là chuyện bình thường "biết thế" xem như không có chuyện gì ?. 4) Sử ủng hộ của các đoàn thể ngoài nhà trường chưa có tác dụng đủ mạnh, họ chưa hiểu được trách nhiệm của tổ chức, cá nhân mình đối với giáo dục, chủ yếu khoán trắng cho nhà trường về mọi mặt. Kết quả điều tra chất lượng học sinh trong một số năm học trước (Bảng 1): Năm học TSHS Kết quả xếp loại cuối năm Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 1996 - 1997 1999 - 2000 224 10 14 180 20 2001 - 2002 245 10 12 205 18 Bảng thống kê chất lượng các cấp qua các năm học (Bảng 2) Năm học TSGV Chất lượng giáo viên qua các kỳ thi GVG cấp trường GVG cấp huyện GVG cấp tỉnh SL % SL % SL % 1996 - 1997 1999 - 2000 11 1 2001 - 2002 13 1 * Nguyên nhân: - Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó chính là công tác quản lý, chỉ đạo từ cấp trên chưa chặt chẽ, kịp thời. Quả lý ở cấp cơ sở thiếu kế hoạch cụ thể, chưa đặt ra mục tiêu phấn đấu cho từng ... sinh kết hợp với việc tổ chức các đợt thi học sinh giỏi để tuyển chọn. Cần kết hợp công tác này một cách chặt chẽ với việc thi chọn giáo viên dạy giỏi hàng năm. Khi đã xác định đúng thiến hướng và năng khiếu của các em thì công tác bồi dưỡng cần tập trung theo mũi nhọn năng khiếu đó. Phải có sự kết hợp giáo dục toàn diện với bồi dưỡng học sinh giỏi theo mũi nhọn (Vì ở tiểu học không tồm tại các lớp học năng khiếu riêng). Lựa chọn đội ngũ giáo viên giỏi bồi dưỡng ngoài giờ học chính khoá vào buổi chiều mỗi tuần từ 2 buổi trở lên. + Phong trào luyện chữ viết. Đây cũng là một hoạt đông thiết thực nâng cao chất lượng học sinh. Phong trào này được phát động trong giáo viên, học sinh và trở thành một yêu cầu. Cả giáo viên, học sinh đều thực hiện theo mẫu chữ viết tại quyết định 31 của Bộ giáo dục và đạo tạo. Mỗi tuần thực hiện 2 tiết luyện viết, ngoài ra được tăng cường trong các giờ học chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn ... Đây là một giải pháp mang tính lâu dài và rộng rãi trong nhà trường, trờ thành một phong trào thi đua rèn luyện vở sạch chữ đẹp hàng năm. Giải pháp 9: Tổ chức tốt các cuộc thi ở trường. Việc tổ chức vừa đủ các cuộc thi thiết thực ở trường có tác dụng đánh giá cả quá trình phát động về từng lĩnh vực một. Thúc đẩy những hoạt động kế tiếp sau theo chiều hướng tích cực và hiệu quả hơn. Nội dung các cuộc thi phải được nhà trường đưa vào kết hoạch hoạt động cả năm học có chỉ tiêu rõ ràng cho từng giáo viên, từng lớp. Lựa chọn các cuộc thi thật thiết thực, nhẹ nhàng, tạo một không khí vui tươi, thoải mái tránh nặng nề, lo sợ quá cầu thị vào kết quả. Nhà trường tổ chức các cuộc thi với nhiều hình thức trên cơ sở tạo điều kiện giao lưu học hỏi lẫn nhau, cần nghiêm khắc với bệnh chạy đua thành tích. Có giải thưởng vừa phải để động viên, khuyến khích kịp thời. Nguồn kinh phí này được trích từ kinh phí đóng góp cho dạy và học, xã hội hoá giáo dục. Các cuộc thi tổ chức phải mang tính hiệu quả, tránh tình trạng hình thức. Giải pháp 10: Chỉ đạo công tác đúc kết sáng kiến kinh nghiệm. Công tác này trước hết nhằm mục đích thu hút giáo viên vào việc nghiên cứu, tìm tòi trong giảng dạy giáo dục, qua đó thúc đẩy tự bồi dưỡng. Các biện pháp chỉ đạo của trường tôi là: + Tổ chức cho giáo viên học tập các sáng kiến kinh nghiệm đã được phòng giáo dục công nhận hoặc các sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng cấp trường của đồng nghiệp. + Coi sáng kiến kinh nghiệm là tiêu chí thi đua trong từng năm học. + Khuyến khích giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm bằng chế độ khen thưởng động viên. + Thành lập hội đồng khoa học nhà trường, tổ chức chấm sáng kiến kinh nghiệm hàng năm. * Việc thu hút giáo viên vào việc nghiên cứu khoa học, tìm ra những phương pháp, biện pháp dạy học phù hợp với, trường, học sinh mình, mang tính thực tiễn là rất cần thiết. Mỗi nhà trường tiểu học cần nhận thức rõ đầy đủ vấn đề này, nhằm trang bị cho mỗi giáo viên ngày càng dày dặn kinh nghiệm, trong dạy học. (Nhóm các giải pháp huy động cộng đồng tham gia xây dựng và phát triển nhà trường). Xét về góc độ chính trị, xã hội hoá giáo dục là "Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân đóng góp công sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý Nhà nước". Cũng như xuất phát từ vai trò quần chúng trong lịch sử, Chủ tịch Hồ Chính Minh từng nói "Giáo dục trong nhà trường chỉ một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy nhưng thiếu sự giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn" Nắm bắt được vấn đề đó, để huy động cộng đồng tham gia phát triển giáo dục. Trong nhóm này nêu ra các giải pháp sau: Giải pháp 11: Tổ chức tốt công tác tuyên truyền cho cộng đồng và xây dựng kế hoạch phân phối các nguồn lực. * Đối với những nơi nhân dân chưa nhận thức rõ trách nhiệm của mình với sự nghiệp giáo dục, thì việc tuyên truyền là hết sức cần thiết. + Tuyên truyền là một chủ trương đúng đắn với mục đích dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ, cải thiện điều kiện học tập cho trẻ, đổi mới cả cách dạy của thầy và cách học của trò bằng nhiều hình thức tuyên truyền. + Xây dựng kế hoạch phân phối nguồn lực đây là yêu cầu khá quan trọng gồm: Phân phối lực lượng giáo viên gỏi, phân phối học sinh phù hợp với năng lực của giáo viên để có học sinh giỏi, hạn chế lưu ban. Đây là những vấn đề cực kỳ quan trọng vì chính nội lực đó là một yếu tố quan trọng để xã hội hoá giáo dục được triển khai có hiệu quả. + Tạo lập uy tín, niềm tin đối với phu huynh, cấp uỷ Đảng, chính quyền và cộng đồng địa phương, thông qua việc khẳng định uy tín, chất lượng của nhà trường. Sự tạo lập uy tín phải bằng chính nội lực, sự phấn đấu của mỗi một thầy cô giáo. Chỉ có khi cộng đồng địa phương đã thật sự tin tưởng thì mới có sự hỗ trợ tích cực cho nhà trường. Muốn làm được điều này thì không có gì khác hơn là người hiệu trưởng phải vận hành nhà trường làm sao có sự tiến lên về mọi mặt. Chất lượng năm sau cao hơn năm trước. Đứng trước tình hình của giáo dục vùng sâu, xa của huyện Quỳ Châu thì đòi hỏi người hiệu trưởng phải thật sự năng động giám nghĩ, giám làm. Còn những giáo viên thì phải có đức hy sinh mới mong tạo lập được một nhà trường uy tín. + Tận dụng những kinh nghiệm tri thức của phụ huynh, vận động họ tham gia vào các hoạt động của nhà trường. Phát huy ở họ không chỉ là vai trò của đối tượng huy động mà cả vai trò chủ thể huy động. + Xây dựng cơ chế liên kết giữa nhà trường và lực lượng xã hội. Trước hết ta cần quan tâm đến nguyên tắc lợi ích, biết tận dụng thời cơ và biết làm những việc có ích cho cộng đồng dưới các hình thức. Nhà trường cần chú ý đến việc chủ động tham gia các hoạt động ở địa phương, tổ chức các hoạt động phối kết hợp, huy động các nguồn lực cho nhà trường bằng việc xây dựng các chương trình dự án. * Bản thân nhà trường: + Hiệu trưởng thường xuyên bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để làm tốt vai trò của mình trong môi trường xã hội tại địa phương. Người hiệu trưởng có uy tín, năng lực là nguồn kích thích sự tham gia của cộng đồng, địa phương cho sự phát triển của nhà trường. Bởi vậy không ngừng bồi dưỡng, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, nhận thức lý luận. + Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm: Giáo viên chủ nhiệm có vai trò quan trọng trong sự kết hợp giữa phụ huynh và nhà trường. Việc giáo viên giỏi làm công tác chủ nhiệm lớp tạo uy tín được đối với phụ huynh là điều kiện tốt để phụ huynh đóng góp và tham gia xây dựng nhà trường. Cần chú trọng việc thường xuyên liên tục giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh để thông báo kết quả học tập, giáo dục của học sinh. + Vận động các hình thức khuyến học cho giáo dục. Giải pháp 12: Tham mưu xây dựng cơ sở vật chất nhà trường. Tham mưu với các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương để xây dựng cơ sở vật chất là một chủ trương lớn, cần có kế hoạch cụ thể sát với tình hình theo từng giai đoạn. Việc tham mưu xây dựng nhà trường không thể một sớm một chiều mà có ngay được, nhưng phải xây dựng một lộ trình để phấn đấu. Trong mấy năm gần đây nhà nước đã có sự quan tâm kịp thời đến các vùng sâu, vùng xa, song chất lượng cuộc sống còn yếu kém. Đảng, chính quyền địa phương cũng bước đầu chăm lo đến giáo dục. Nhưng trước yêu cầu hiện nay thì cơ sở vật chất các nhà trường vùng sâu, xa, vùng đồng bào dân tộc vẫn chưa đáp ứng: Nhà học tạm bợ vẫn tồn tại, phòng học thiếu ánh sáng, các phòng chức năng chưa có, hệ thống phòng thiết bị, thư viện, phòng năng khiếu chưa đủ chuẩn. Bởi vậy, việc tham mưu để hoàn thiện dần cơ sở vật chất đáp ứng cho dạy và học là việc làm rất quan trọng cần phát huy tối cao vai trò đối ngoại của hiệu trưởng nhằm làm tốt công tác này. Những kết quả bước đầu đạt được: Năm học TSHS Kết quả xếp loại cuối năm Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 2004 - 2005 250 21 45 179 5 2005- 2006 221 23 47 150 1 Bảng thống kê chất lượng các cấp qua các năm học (Bảng 2) Năm học TSGV Chất lượng giáo viên qua các kỳ thi GVG cấp trường GVG cấp huyện GVG cấp tỉnh SL % SL % SL % 2004 - 2005 12 4 1 2005 - 2006 14 4 1 Chương IV Phần kết thúc Chương trình tiểu học mới đã được ban hành và triển khai rộng khắp trong cả nước. Trong bối cảnh Đảng, Nhà nước và nhân dân đang rất quan tâm là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành giáo dục từ nay đến năm 2010, từng trường tiểu học càng có cơ hội để đẩy mạnh chuẩn hoá hiện đại hoá và xã hội hoá giáo dục. Cứ theo cái đà đổi mới như hiện nay thì ngành giáo dục sẽ đáp ứng được yêu cầu phải đào tạo ra một thế hệ có đủ đức, đủ tài, những con người lao động mới phục vụ công cuộc xây dựng đất nước trong thế kỷ 21. Cùng với cả nước, tỉnh Nghệ An, huyện Quỳ Châu thì trường tiểu học Châu Phong II đã và đang dốc hết tâm lực để làm cuộc Cách mạng giáo dục. Đẩy lùi những yếu kém, tiêu cực, lề thói cũ. Thiếu trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, chấn hưng nền giáo dục xã nhà. Với mục tiêu đặt ra đầu tiên trong bối cảnh giáo dục hiện nay của trường là "Chất lượng năm sau phải cao hơn năm trước". Đướng trước chương trình giáo dục mới nhà trường đồng thời tuân thủ phần cứng (Chương trình quy định chuẩn) và vận dụng linh hoạt phù hợp với đặc điểm vùng trường mình. Đặc biệt chú trọng đẩy mạnh công tác bồi dưỡng tiếng việt, dạy tiếng việt cho học sinh dân tộc có như vậy mới từng bước bắt nhịp đối với yêu cầu đổi mới. Đề tài "Nâng cao chất lượng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông" kiến nghị 3 nhóm giải pháp với 12nhóm giải pháp cụ thể được áp dụng thực hiện tự 2 năm nay. Tuy nhiên trong số đó có những giải pháp tình thế mà không thể áp dụng thực hiện trong những thời điểm khác. * Những kiến nghị: - Đối với Sở giáo dục tham mưu với UBND tỉnh có chế độ tuyển dụng thu hút những giáo viên trẻ vào công tác các trường vùng sâu, vùng xa đặc biệt như chúng tôi để làm giáo viên nòng cốt, phong trào cho trường, có chế độ tương xứng với năng lực của họ đã bỏ ra. - Đối với phòng giáo dục có khen thưởng hay phê bình kịp thời đối với những trường vùng sâu, xa mà có bước tiến bộ hay xuống dốc. - Nên phân luồng các vùng học sinh khi tổ chức các kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện bằng các bộ đề khác nhau, hoặc có điểm ưu tiên để khuyến khích. - Tham mưu với UBND huyện để có chế độ hợp lý cho những giáo viên đi công tác các trường vùng sâu, xa để họ đảm bảo cuộc sống an tâm công tác. Đặc biệt là những giáo viên đã công tác từ ba năm trở lên. Châu Phong, ngày ..... tháng .... năm 200.. Người viết Nguyễn Thị Bình
Tài liệu đính kèm: