PHẦN I : PHẦN MỞ ĐẦU
Để tiến kịp với thời đại, phục vụ kịp thời cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giáo dục Tiểu học đã và đang trở thành mối quan tâm lớn của xã hội. Bậc tiểu học được coi là bậc học nền móng của hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở bậc tiểu học. Vì thế giáo dục tiểu học phải chuẩn bị tốt về mọi mặt để học sinh tiếp tục học lên các lớp trên.
Cùng với sự phát triển các bộ môn khoa học khác, môn Tiếng việt nói chung cũng như phân môn Tập làm văn nói riêng ngày càng khẳng định được vị trí, nhiệm vụ của nó một cách rõ ràng cụ thể và đầy đủ. Dạy Tiếng việt nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng như dạy kiến thức cơ bản, cung cấp những phương tiện, những cơ sở để học tốt các môn học khác.
Thông qua phân môn Tập làm văn, học sinh tiểu học được làm quen với nhiều thể loại, nhiều kiểu bài như quan sát tranh và trả lời câu hỏi, kể chuyện tường thuật, viết thư, song nổi bật lên tất cả là thể loại văn miêu tả, thể loại này chiếm phần lớn tổng số giờ dạy- học Tập làm văn.
Dạy văn miêu tả là dạy cho học sinh kỹ năng thực hành vận dụng khả năng sử dụng tiếng Việt và hiểu biết của mình để viết bài văn miêu tả. Văn miêu tả rèn luyện cho các em học sinh kỹ năng quan sát, kỹ năng sử dụng các giác quan một cách tinh tế, nhạy cảm để tiếp nhận tri thức phong phú từ cuộc sống.
ĐỀ TÀI: Rèn cho các em kĩ năng diễn đạt – kĩ năng viết văn miêu tả có hiệu quả cao nhất PHẦN I : PHẦN MỞ ĐẦU Để tiến kịp với thời đại, phục vụ kịp thời cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giáo dục Tiểu học đã và đang trở thành mối quan tâm lớn của xã hội. Bậc tiểu học được coi là bậc học nền móng của hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở bậc tiểu học. Vì thế giáo dục tiểu học phải chuẩn bị tốt về mọi mặt để học sinh tiếp tục học lên các lớp trên. Cùng với sự phát triển các bộ môn khoa học khác, môn Tiếng việt nói chung cũng như phân môn Tập làm văn nói riêng ngày càng khẳng định được vị trí, nhiệm vụ của nó một cách rõ ràng cụ thể và đầy đủ. Dạy Tiếng việt nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng như dạy kiến thức cơ bản, cung cấp những phương tiện, những cơ sở để học tốt các môn học khác. Thông qua phân môn Tập làm văn, học sinh tiểu học được làm quen với nhiều thể loại, nhiều kiểu bài như quan sát tranh và trả lời câu hỏi, kể chuyện tường thuật, viết thư,song nổi bật lên tất cả là thể loại văn miêu tả, thể loại này chiếm phần lớn tổng số giờ dạy- học Tập làm văn. Dạy văn miêu tả là dạy cho học sinh kỹ năng thực hành vận dụng khả năng sử dụng tiếng Việt và hiểu biết của mình để viết bài văn miêu tả. Văn miêu tả rèn luyện cho các em học sinh kỹ năng quan sát, kỹ năng sử dụng các giác quan một cách tinh tế, nhạy cảm để tiếp nhận tri thức phong phú từ cuộc sống. Dạy văn miêu tả góp phần giáo dục tình cảm thẩm mĩ cho học sinh (gợi ra những cảm xúc, tình cảm, những tình cảm cao thượng, đẹp đẽ của các em). Đặc biệt là phát triển ngôn ngữ cho các em, nắm chắc kiến thức làm văn miêu tả, các em thực sự có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất giữa tư duy và tình cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người, tự nhiên, xã hội. Để làm được một bài văn đúng yêu cầu đề và làm hay, học sinh phải biết sử dụng những từ ngữ, cách đặt câu, viết đoạn, viết bài đúng và có sức gợi cảm. Những hình ảnh, những chi tiết đưa vào phải chân thực, sinh động gợi cảm, nghĩa là nó còn mang tư cách của một hình tượng nghệ thuật. Một bài văn miêu tả vừa có tư cách là một bài văn vừa có tư cách là một tác phẩm văn chương. Đây là vấn đề rất khó khăn đối với học sinh ở bậc tiểu học bởi các em còn hạn chế về trình độ, vốn từ và vốn sống. Để có thể giúp các em có năng lực, kỹ năng về viết văn nói chung và viết văn miêu tả nói riêng, một trong những biện pháp có hiệu quả đó là xuất phát từ thực tế bài văn của học sinh. Phương pháp dạy học tập làm văn chỉ ra rằng: đây là biện pháp gần gũi với học sinh, có khả năng tạo những say mê hứng thú cho học sinh và để lại những dấu ấn lâu bền, vững chắc trong tâm trí học sinh. Vì vậy trong việc dạy- học thể loại văn miêu tả xuất phát từ bài văn thực tế của học sinh để uốn nắn, điều chỉnh hình thành hiểu biết và kỹ năng làm văn cho học sinh càng trở nên cần thiết, quan trọng là không thể thiếu đối với giáo viên. Qua thực tế tìm hiểu năng lực diễn đạt của học sinh và trên bài viết của học sinh, tôi thấy các em mắc khá nhiều lỗi như : lỗi dùng từ, lối về câu (đặt câu thiếu chuẩn xác, viết những câu văn tối nghĩa) hay các em sử dụng các phương tiện, hình ảnh diễn đạt không phù hợp, bài viết còn sai lỗi chính tả nhiều, Đứng trước tình hình này tôi muốn khảo sát tìm hiểu nguyên nhân do đâu mà các em mắc lỗi, từ đó tìm khắc phục sửa chữa và mở ra hướng đi cho học sinh trong việc rèn tập cho các em kĩ năng diễn đạt – kĩ năng viết văn miêu tả có hiệu quả cao nhất. 1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Trong việc làm văn nói chung và làm văn miêu tả nói riêng, thực tế viết văn của học sinh vẫn còn tồn tại các lỗi như: lỗi cấu trúc đoạn văn, lỗi huy động kiến thức, lỗi diễn đạt. Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu một số lỗi cơ bản về diễn đạt mà học sinh tiểu học thường mắc phải trong bài làm văn miêu tả như: -Lỗi dùng từ. -Lỗi đặt câu. -Lỗi sử dụng các hình ảnh diễn đạt và các biện pháp tu từ không chính xác. 2. Mục tiêu cần đạt theo yêu cầu chung: 2. 1 Mục đích ý nghĩa của đề tài. Xuất từ tầm quan trọng của đề tài, trên cơ sở xem xét các lỗi sai học sinh thường mắc phải, cố gắng tìm ra một số biện pháp khắc phục và sữa chữa các loại lỗi nhằm giúp học sinh có thể tránh được việc mắc lỗi trong quá trình viết một bài văn miêu tả đúng, chân thật sinh động và gợi cảm. 2.2 Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 5 trường . 2.3 Nhiệm vụ nghiên cứu: Với đề tài này, nhiệm vụ trước tiên là điều tra, khảo sát thực tiễn bài làm của học sinh, thống kê được lỗi của học sinh mắc phải. Dựa vào cơ sở lí luận để phân tích, đánh giá, xem xét từng loại lỗi, từ đó tìm ra nguyên nhân mắc lỗi và có giải pháp xử lý, khắc phục đối với từng loại lỗi. 2.4 Phương pháp nghiên cứu. -Phương pháp hệ thống : hệ thống hóa những kiến thức lý luận cần thiết để thấy được tính hệ thống của các đơn vị kiến thức và tính hệ thống của các phương pháp thực hiện. -Phương pháp thống kê, khảo sát: Trên cơ sở các bài văn của học sinh tiểu học lớp 5 thống kê các loại lỗi học sinh thường mắc phải và khảo sát loại lỗi sai đó. -Phương pháp phân tích ngôn ngữ : Phân tích các lỗi sai và tìm hiểu nguyên nhân mắc lỗi của học sinh, từ đó nêu cách khắc phục, sửa chữa. PHẦN II: KẾT QUẢ I. Cơ sở lý luận: 1.Con đường đi từ thực tế bài làm của học sinh để hình thành kỹ năng làm văn cho học sinh. Đây là một trong ba phương pháp đem lại hiệu quả thực tế cao trong việc giảng dạy Tập làm văn, vì chỉ thông qua việc chấm bài cho học sinh, tiếp cận bài viết của học sinh, người giáo viên mới nắm vững đối tượng học sinh của mình, thấy được cái đúng cái hay, cái tốt cần động viên khuyến khích học sinh cần phát huy. Mặt khác thấy được cái đở, cái hạn chế của học sinh trong việc việc vận dụng kiến thức lí thuyết vào bài viết của mình để giáo viên có biện pháp rèn tập, sửa chữa. Khi đi vào khảo sát thực tế (chấm bài làm văn của học sinh) giáo viên thấy rất rõ khả năng viết văn của học sinh thể hiện trên bài viết. Qua bài làm của học sinh, ta có thể thấy lời sai, có thể chỉ ra lỗi sai đó là gì, sai như thế nàovà trong đầu hình thành kiến thức đúng để chấm, kiểm tra sửa chữa cho các em. Trong khi làm bài, chúng ta thấy rằng học sinh thường không dễ dàng phát hiện ra lỗi sai của mình bởi không xác định rõ ý của mình, không xác định rõ ranh giới giữa thành phần này với thành phần kia. Một điều quan trọng hơn nữa là có khi không hiểu rõ những yêu cầu về thể loại văn bản mà mình đang tiếp cận. Trực tiếp nắm được bài làm của học sinh, qua sự phân tích chúng ta sẽ hình thành cách sửa chữa hợp lý cho các em để từ đó các em tránh được những lỗi sai giúp cho các em viết bài hoàn hảo hơn. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, con đường hình thành kiến thức kĩ năng làm văn cho học sinh xuất phát từ thực tế bài làm, từ việc khắc phục sửa chữa các lỗi sai trong bài viết của học sinh thường để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong tâm trí học sinh. Nó giúp học sinh khả năng khắc phục nhanh chóng và triệt để những sai sót tồn tại trong từng bài viết nếu biết nhận thức rõ lỗi sai của mình một cách cụ thể, đầy đủ. Từ đó giúp cho học sinh hình thành rèn luyện, bồi dưỡng những kiến thức , kĩ năng đúng, tốt đẹp trong việc làm văn. Để sản sinh được một bài văn miêu tả có hiệu quả và tránh được lỗi sai, học sinh cần nắm vững được quy trình ( các bước tạo lập văn bản). Đó là những kiến thức cơ bản học sinh cần phải có để trang bị cho kiến thức về tập làm văn trong nhà trường. 2. Bước định hướng : Khi tạo lập văn bản, người viết cần có định hướng rõ rệt cho văn bản hay nói đúng hơn là xác định rõ nhân tố giao tiếp bao gồm: -Nhân vật giao tiếp: người viết bài – học sinh, người đọc – trước hết là giáo viên chấm bài. Mục đích giao tiếp:thức hiện kiến thức đã tích lũy được qua các kĩ năng tạo lập văn bản ( dùng từ, đặt câu, dựng đoạn về tổ chức bài văn) để thông tin, trình bày và tái hiện một đối tượng, một vấn đề nào đó. -Nội dung giao tiếp ; thông qua việc tìm hiểu đề người làm bài cần xác định rõ: + Điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp: Điều kiện về thời gian, không gian tài liệu, vốn hiểu biết của học sinhkhi viết bài. + Cách thức giao tiếp : Những yêu cầu, gợi ý về thể loại văn bản. 3. Bước lập đề cương ( hay còn gọi là lập dàn bài): Đề cương bao gồm những ý chính, những luận điểm cơ bản. Nó là nền tảng cho việc viết một văn bản hoàn chỉnh. Muốn lập được đề cương cần thực hiện theo trình tự công việc sau: + Xác lập các thành tố nội dung. +Sắp xếp các thành tố nội dung. + Trình bày đề cương. 4. Viết văn: Muốn viết văn bản cần phải dựa vào đề cương. Từ đề cương đã có người viết chuyển hóa thành văn bản. Để viết được văn bản hoàn chỉnh người viết phải vận dụng các khả năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, liên kết đoạn và viết thành văn bản hoàn chỉnh. 5. Kiểm tra và hoàn thiện văn bản: Khi viết xong văn bản người viết cần đọc, soát lại để kiểm tra vă ... nước. Mái tóc bé mỏng manh như mảnh giấy được tạo nên bởi những sợi tơ ngắn. Cái miệng nhỏ xíu luôn cười làm lộ rõ mấy chiếc răng đang nhú như những hạt ngô non...” Hình ảnh em bé người viết miêu tả thật đáng yêu: đôi mắt tròn, đen lay láy, cái miệng nhỏ xinh. Duy chỉ có mái tóc: “mỏng manh như tờ giấy được tạo nên bởi những sợi tơ ngắn” là thiếu hợp lí và làm giảm đi tính thẩm mĩ của đối tượng miêu tả. Mái tóc của em bé đang ở tuổi tập đi thường mỏng và mềm mại nhưng không ai ví mỏng mamh như tờ giấy bao giờ. Ta có thể sửa một chút để đoạn văn trở nên hợp lí hơn: “. . . Bé có đôi mắt tròn, đen lay láy và trong veo như hồ nước. Mái tóc bé mỏng manh và mềm mại như những sợi tơ. Cái miệng nhỏ xíu luôn cười làm lộ rõ mấy chiếc răng đang nhú như những hạt ngô non. . .” *Nguyên nhân mắc lỗi: Qua khảo sát và tìm hiểu các bài văn miêu tả của học sinh tiểu học. Học sinh thường mắc các lỗi này là do: - Học sinh ít được hướng dẫn, rèn tập những thói quen, kĩ năng quan sát đối tượng để nắm bắt chính xác những điểm nổi bật của đối tượng. - Do hạn chế về trình độ, vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh và kiến thức về biện pháp tu từ so sánh còn chưa sâu, nên các hình ảnh so sánh học sinh đưa vào bài viết của mình chưa phù hợp với việc miêu tả. - Do học sinh ít được rèn luyện, bồi dưỡng năng lực hoạt động ngôn ngữ nhất là hoạt động sử dụng ngôn ngữ trong diễn đạt, trình bày. . . *Cách khắc phục sửa chữa: Để khắc phục được loại lỗi này, đòi hỏi người giáo viên phải cung cấp cho học sinh một vốn hiểu biết đầy đủ và sâu rộng vể biện pháp so sánhø tu từ, rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy, khi đem ra so sánh phải chú ý lựa chọn hình ảnh phù hợp với đối tượng miêu tả. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần rèn, tập cho học sinh khả năng suy nghĩ, tìm tòi và bồi dưỡng khả năng tưởng tượng phong phú. Đặc biệt góp phần hình thành, bồi dưỡng cho học sinh cảm nhận cái đẹp, khả năng rung động xúc cảm, nhạy bén tinh tế trước cái đẹp. Để từ đó, các em huy động vào bài viết của mình những từ ngữ, hình ảnh có chọn lọc, giàu sức gợi tả, gợi cảm. Tóm lại: Như vậy, muốn khắc phục những lỗi mà học sinh còn mắc phải như trên, người giáo viên tiểu học cần phải chú trọng hơn trong tất cả các phân môn của môn Tiếng Việt như từ ngữ, ngữ pháp, chính tả, tập làm văn để giúp các em có vốn từ để sử dụng. Hiểu được nghĩa của từ để không sử dụng sai, nhất là những từ gần nghĩa, đồng nghĩa để các em sử dụng trong từng văn cảnh một cách linh hoạt. Ngoài ra cho công việc này đạt hiệu quả cao, người giáo viên cần nhận biết được vai trò của công việc chấm bài và tiết học trả bài là vô cùng quan trọng. Nó là bước đi đầu tiên, là cơ sở tiền đề để các em tiến vào thế giới huyền diệu của văn chương. Nếu như không có sự tỉ mỉ, cẩn trọng, nghiêm túc, khoa học trong việc thực hiện những công việc này thì không còn con đường nào khác có thể giúp học sinh thoát khỏi tình trạng yếu kém về năng lực diễn đạt trong bài tập làm văn như hiện nay. * Công việc chấm bài: Chấm bài là công việc lao động vất vả, phức tạp đòi hỏi người giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao, thái độ cẩn trọng, đúng đắn. Giáo viên tiếp xúc với sản phẩm tinh thần của học sinh. Kiểm nghiệm thành quả lao động giảng dạy và giáo dục của mình. Khi chấm bài, giáo viên phải có thái độ yêu thương, tôn trọng học sinh. Bài văn là kết quả lao động của các em. Vì thế, nó hay hoặc dở giáo viên vẫn phải tôn trọng. Cần nghiêm khắc, tránh tuyệt đối tình trạng “chấm bài cho xong việc” mà coi thường sản phẩm học sinh làm ra. Trong khi chấm giáo viên cần chỉ ra chính xác các loại lỗi mà học sinh đã phạm phải. Ghi chú rõ đó là lỗi gì? Sai như thế nào? Cụ thể hơn giáo viên có thể ghi cụ thể vào cuốn sổ công tác để tiện cho việc sửa chữa khắc phục đối với bài viết học sinh trong giờ trả bài. Việc ghi lại những lỗi sai đó nhằm mục đích phục vụ cho công việc giảng dạy lí thuyết hay sử dụng tư liệu cho giờ trả bài. Qua việc chấm bài, nắm được thực tế bài làm của học sinh (bài viết đã mang đặc trưng của thể loại hay chưa? Học sinh còn mắc những loại lỗi nào? ). Qua đó định hướng những công việc chính trong tiết trả bài sau đó. * Công việc trả bài: Đây cũng là công việc hết sức quan trọng. Chính từ công việc này người giáo viên giúp học sinh nhận biết thực tế bài làm của mình, khả năng, năng lực của các em về cách viết văn. Cái gì các em đã đạt được và cái gì chưa đạt được trong bài viết. Do đó công việc sửa lỗi phải được thực hiện cụ thể tránh tình trạng buông xuôi chữa cho qua chuyện “Muốn đạt được việc đó người giáo viên phải: -Đưa ra các lỗi tiêu biểu để học sinh tự phát hiện sửa chữa nhằm phát huy vai trò chủ thể sáng tạo của học sinh. Công việc này giáo viên để tự các em tìm, phát hiện lỗi sai và đưa ra cách sửa chữa thích hợp (Giáo viên có thể gợi ý một số lỗi sau đó để học sinh tự phát hiện ). Giáo viên không làm hộ, làm thay học sinh mà chỉ giữ vị trí cố vấn, uốn nắn những suy nghĩ lệch lạc cho học sinh. Sau khi học sinh đã phát hiện ra lỗi sai và đưa ra cách giải đúng. Lúc này giáo viên phân tích cặn kẽ cho các em biết nguyên nhân vì sao các em mắc lỗi và cách khắc phục, sửa chữa những lỗi đó như thế nào. Từ đó các em sẽ chú ý để tránh mắc những lỗi sai tương tự. Qua sự rèn luyện các em sẽ viết được những bài văn có độ chính xác cao, trong sáng, sinh động và giàu cảm xúc, mạch lạc, rõ ràng trong diễn đạt, trong bố cục. -Để học sinh không còn mắc lỗi trong các bài viết, người giáo viên phải không ngừng học hỏi, bồi dưỡng nghiệp vụ và kiến thức chuyên môn, phải truyền thụ cho học sinh những kiến thức đúng, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú với bài giảng của mình Có như vậy các em mới thấy yêu thích môn học và dành nhiều thời gian nghiên cứu môn học. **Đánh giá kết quả Qua quá trình học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, sinh hoạt chuyên môn, giáo viên khối 5 trong trường chúng tôi đã thực hiện tốt công việc này: Chú trọng việc dạy các từ ngữ, ngữ pháp, chính tả. Thực hiện tốt cong việc chấm chữa bài. Hiện tại học sinh khối 5 trường tôi đã tiến bộ nhiều hơn. Các em đã biết dùng từ chính xác, đặt câu đúng. Sử dụng chấm câu phù hợp. Kết cấu bài văn rõ ràng hơn. Các em đã biết sử dụng phương pháp tu từ so sánh. Các hình ảnh gợi tả chọn lọc phù hợp với nội dung bài. Các em thích học văn hơn. Giờ học đã sôi nổi hơn. Việc diễn đạt trong bài văn cũng rõ ràng hơn. PHẦN III: KẾT LUẬN Thực trạng hiện nay học sinh tiểu học thường coi trọng môn Toán và coi nhẹ môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng trong nhà trường. Vì vậy, người giáo viên tiểu học phải đặc biệt quan tâm đến giờ học Tiếng Việt. Đặc biệt là trong giờ học Tập làm văn cần quan tâm nhiều hơn đến kĩ năng diễn đạt cho học sinh. Trồng cây, cây lớn từ gốc chứ không phải cây lớn từ ngọn. Trồng người cũng vậy. . . Bởi vậy, người giáo viên tiểu học không chỉ dạy “ văn” rèn kĩ năng diễn đạt cho học sinh trong giờ tập làm văn mà phải biết kết hợp đồng bộ ở tất cả các môn học. Trong bất cứ giờ học của môn học nào, khi giảng bài giáo viên đều phải lựa chọn những từ ngữ đúng chuẩn xác, dễ hiểu với cách diễn đạt rõ ràng rành mạch để từ đó học sinh học hỏi và noi theo. Những công việc trên đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Có như vậy mới từng bước nâng cao hiệu quả của việc dạy và học của thầy và trò hiện nay. Tất cả những vấn đề nêu trên chỉ nhằm giải quyết những khó khăn nhất thời về tình trạng mắc lỗi trong bài viết văn miêu tả nói riêng và trong các bài văn nói chung của học sinh tiểu học hiện nay. Sự nghiệp giáo dục của nước ta đã, đang và sẽ còn phát triển và không ngừng đổi mới trong việc dạy – học. Chính vì thế, đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ nhận thức nhất định, có tâm huyết với nghề. Bên cạnh đó, sự nghiệp giáo dục cần có những cải tiến đáng kể cho phù hợp với tình hình hiện nay. Khi chữa các lỗi cho học sinh, giáo viên nên lấy thực tế bài làm, tránh chữa lỗi áp đặt, công thức sáo rỗng. Từ thực tế bài làm đó, giáo viên phân tích cho học sinh hiểu để các em phát hiện ra nguyên nhân vì sao mình lại sai, cách sửa chữa thế nào cho đúng để bài viết của mình đạt hiệu quả cao, có sức thuyết phục. Người giáo viên phải luôn luôn coi trọng việc chấm bài và trả bài cho học sinh, bởi đó chính là những thước đo chuẩn mực nhất cho việc học tập của các em. Những yêu cầu trên cần kết hợp một cách chặt chẽ với nhau. Không những ở khối lớp 5 mà phải được kết hợp ở tất cả các khối lớp. Ngay từ khi vào lớp 1 các em cần được rèn luyện kĩ năng này. Có như vậy sự nghiệp, mục tiêu giáo dục của bộ môn Tiếng Việt trong nhà trường tiểu học mới đạt được kết quả thiết thực như mong muốn. Trên đây là một số lỗi diễn đạt trong bài tập làm văn miêu tả của học sinh tiểu học mà tôi đã tìm hiểu được qua quá trình giảng dạy, khảo sát thống kê và một số giải pháp để khắc phục những lỗi sai đó. Tôi mạnh dạn đưa ra mong được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp.
Tài liệu đính kèm: