Môn Toán ở cấp Tiểu học có vai trò rất quan trọng. Ngoài việc cung cấp kiến thức cơ bản ban đầu là cơ sở và nền tảng để học sinh học ở các bậc học cao hơn thì còn hình thành cho học sinh các kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống. Thông qua dạy học toán giúp học sinh bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý, diễn đạt đúng, phát hiện - giải quyết các vấn đề đơn giản gần gũi trong cuộc sống; từ đó kích thích trí tưởng tượng, chăm học, hứng thú học; hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt và sáng tạo.
Một trong những hoạt động không thể thiếu trong dạy học toán đó là “giải toán”. Mạch kiến thức về giải toán được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến thức về số học; đại lượng và đo đại lượng; yếu tố hình học xuyên suốt từ lớp 1 đến lớp 5 với lượng kiến thức nâng cao dần.
Hoạt động giải toán bao gồm các thao tác: Xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện (dữ kiện đã cho với dữ kiện cần tìm), chọn phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
Thông qua dạy giải toán, học sinh biết tự phát hiện và giải quyết vấn đề; biết nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp; rút ra quy tắc khái quát,.
Yêu cầu chủ yếu của giải toán là:
- Bài giải không có sai sót ( về kiến thức toán học, phương pháp suy luận, tính sai, sử dụng sai ký hiệu, ngôn ngữ diễn đạt sai, hình vẽ sai).
- Bài giải phải có cơ sở lý luận.
- Bài giải phải đầy đủ.(xét tất cả các trường hợp có thể xảy ra của một bài toán).
- Bài giải phải đơn giản.( cách ngắn gọn nhất).
Để đạt các mục tiêu yêu cầu nêu trên đòi hỏi giáo viên phải tổ chức các hoạt động học tập toán, giúp học sinh nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ toán,.; trình tự giải một bài toán; các bước giải toán ; trú trọng rèn kỹ năng giải toán.
Mặt khác, xuất phát từ việc giải toán trong các trường tiểu học nói chung, đối với từng khối, lớp ở từng trường nói riêng và ngay tại lớp 5A2 do tôi giảng dạy và chủ nhiệm còn gặp những khó khăn nhất định: Học sinh chưa nắm chắc các dạng toán, trong quá trình giải toán còn chưa tuân thủ theo một trình tự giải nhất định, nắm chưa vững các bước giải toán, tính sáng tạo – linh hoạt khi giải toán còn hạn chế, trình bày bài giải chưa khoa học,.
Từ lý do nêu trên nên tôi đã nghiên cứu, tìm giải pháp Rèn kỹ năng giải toán cho học sinh lớp 5 vận dụng tại lớp tôi giảng dạy đã đạt được hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán lớp 5.
Phần thứ nhất: Đặt vấn đề Môn Toán ở cấp Tiểu học có vai trò rất quan trọng. Ngoài việc cung cấp kiến thức cơ bản ban đầu là cơ sở và nền tảng để học sinh học ở các bậc học cao hơn thì còn hình thành cho học sinh các kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống. Thông qua dạy học toán giúp học sinh bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý, diễn đạt đúng, phát hiện - giải quyết các vấn đề đơn giản gần gũi trong cuộc sống; từ đó kích thích trí tưởng tượng, chăm học, hứng thú học; hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt và sáng tạo. Một trong những hoạt động không thể thiếu trong dạy học toán đó là “giải toán”. Mạch kiến thức về giải toán được sắp xếp xen kẽ với các mạch kiến thức về số học; đại lượng và đo đại lượng; yếu tố hình học xuyên suốt từ lớp 1 đến lớp 5 với lượng kiến thức nâng cao dần. Hoạt động giải toán bao gồm các thao tác: Xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện (dữ kiện đã cho với dữ kiện cần tìm), chọn phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài toán. Thông qua dạy giải toán, học sinh biết tự phát hiện và giải quyết vấn đề; biết nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp; rút ra quy tắc khái quát,... Yêu cầu chủ yếu của giải toán là: Bài giải không có sai sót ( về kiến thức toán học, phương pháp suy luận, tính sai, sử dụng sai ký hiệu, ngôn ngữ diễn đạt sai, hình vẽ sai). Bài giải phải có cơ sở lý luận. Bài giải phải đầy đủ.(xét tất cả các trường hợp có thể xảy ra của một bài toán). Bài giải phải đơn giản.( cách ngắn gọn nhất). Để đạt các mục tiêu yêu cầu nêu trên đòi hỏi giáo viên phải tổ chức các hoạt động học tập toán, giúp học sinh nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ toán,..; trình tự giải một bài toán; các bước giải toán ; trú trọng rèn kỹ năng giải toán. Mặt khác, xuất phát từ việc giải toán trong các trường tiểu học nói chung, đối với từng khối, lớp ở từng trường nói riêng và ngay tại lớp 5A2 do tôi giảng dạy và chủ nhiệm còn gặp những khó khăn nhất định: Học sinh chưa nắm chắc các dạng toán, trong quá trình giải toán còn chưa tuân thủ theo một trình tự giải nhất định, nắm chưa vững các bước giải toán, tính sáng tạo – linh hoạt khi giải toán còn hạn chế, trình bày bài giải chưa khoa học,.. Từ lý do nêu trên nên tôi đã nghiên cứu, tìm giải pháp ‘’ Rèn kỹ năng giải toán cho học sinh lớp 5’’ vận dụng tại lớp tôi giảng dạy đã đạt được hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán lớp 5. Phần thứ hai: nội dung 1. Cơ sở lý luận: 1.1/. Thế nào là “rèn kỹ năng giải toán”? - Giải toán: Là hoạt động làm tính để từ những đại lượng đã cho tìm ra đại lượng chưa biết. - Rèn kỹ năng giải toán: Nghĩa là, vận dụng kiến thức toán thu nhận được vào giải toán, luyện cho được và ở mức thuần thục. 1.2/. Mục tiêu dạy học môn Toán lớp 5: * Về giải toán: Học sinh biết giải, trình bày bài giải các bài toán có đến 4 bước tính. * Dạng toán: - Các bài toán đơn giản về quan hệ tỉ lệ (bằng phương pháp “Rút về đơn vị” hoặc “Tìm tỉ số”). - Các bài toán về tỉ số phần trăm (Tìm tỉ số phần trăm của hai số; Tìm giá trị tỉ số phần trăm của một số cho trước; Tìm một số biết giá trị tỉ số phần trăm của số đó). - Các bài toán đơn giản về chuyển động đều (Tính vận tốc; Tính quãng đường; Tính thời gian ; Bài toán chuyển động ngược chiều trong cùng một thời gian ; Bài toán chuyển động cùng chiều). - Các bài toán ứng dụng kiến thức đã học để giải quyết một số vấn đề của đời sống. - Các bài toán có nội dung hình học (liên quan đến các hình đã học). 2. Thực trạng về kỹ năng giải toán của học sinh lớp 5: 2.1/. Thực trạng: * Các loại bài tập toán ở phổ thông nói chung được chia hai loại cơ bản: Bài tập có quy tắc giải và bài tập không có quy tắc giải. Với tiểu học nói riêng, chia ba loại toán: Toán đơn, toán hợp, toán điển hình. Việc nắm các dạng toán và phương pháp giải toán ở mỗi dạng toán vẫn còn những hạn chế : Ví dụ 1: Dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó” -> Học sinh chưa nắm được cách tìm hai số: Số lớn = ( tổng + hiệu) : 2 Số bé = ( tổng – hiệu ) : 2 hoặc: Tổng – số lớn Hay có thể tìm số bé trước, số lớn sau: Số bé = ( tổng – hiệu ) : 2 Số lớn = ( tổng + hiệu) : 2 hoặc: Tổng – số bé Ví dụ 2: Dạng toán “ Tìm số trung bình cộng” Học sinh còn chưa ghi nhớ được: Số trung bình cộng = tổng các số : số số hạng Ví dụ 3: Bài toán về “ chuyển động đều” Học sinh vận dụng chưa thành thạo các công thức, còn nhầm lẫn các công thức ( v = s : t ; t = s : v ; s = v x t) Học sinh còn mơ hồ về cách tính vận tốc xuôi dòng, vận tốc ngược dòng của chuyển động trên dòng nước: vxuôi dòng = vthực + vdòng nước vngược dòng = vthực - vdòng nước vxuôi dòng - vngược dòng = vdòng nước x 2 * Trong quá trình giải toán học sinh chưa nắm được trình tự và các bước giải toán. Ví dụ: (Bài 2 –SGK, Trang 170) Một mảnh đất hình chữ nhật có chu vi 120 m. Chiều dài hơn chiều rộng 10 m. Tính diện tích mảnh đất đó. Học sinh muốn tính được diện tích mảnh đất phải biết chiều dài, chiều rộng. Muốn tìm chiều dài, chiều rộng phải biết nửa chu vi. Các bước giải ở bài toán này là: Vận dụng các bước giải bài toán “ Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số”. Sau đó, vận dụng công thức tính diện tích hình chữ nhật để tính diện tích mảnh đất( Bài toán có nội dung hình học) ở bài toán này học sinh thường mắc sai sót: Bước 1: Xác định tổng, hiệu của hai số Hai số cần tìm : chiều dài, chiều rộng Hiệu hai số: 10 m Tổng hai số: nửa chu vi (120 : 2 = 60 (m) ) Học sinh hay nhầm: tổng là : 120 m Bước 2: Tóm tắt đề toán bằng sơ đồ: Học sinh hay mắc phải lỗi không vẽ sơ đồ, hoặc vẽ sơ đồ thiếu chính xác. Bước 3: Tìm từng số: Chiều dài mảnh đất là:( 60 + 10) : 2 = 35 (m) Chiều rộng mảnh đất là: 60 -35 = 25 (m) * Tính diện tích mảnh đất hình chữ nhật ( 35 x 25 =875 (m2) -> học sinh còn nhầm sang công thức tính chu vi, sai tên đơn vị diện tích hoặc thiếu tên đơn vị. Bước 4: Thử lại và ghi đáp số. Học sinh chưa kiểm tra kết quả, thiếu đáp số, thiếu tên đơn vị, hoặc sai tên đơn vị. *Một số học sinh giải bài còn thiếu cơ sở lí luận, hay kết luận vội vàng. Ví dụ: Tính chiều dài hình chữ nhật có chiều rộng 3,2 cm và có diện tích bằng diện tích hình vuông có cạnh 4cm. Học sinh thường tính: Diện tích hình chữ nhật là: 4 x 4 = 16 (cm2) -> Thiếu lập luận căn cứ, đúng phải là: Diện tích hình vuông (hay: Diện tích hình chữ nhật) là: 4 x 4 = 16 (cm2) * Bài giải của học sinh chưa đầy đủ, chưa ngắn gọn. Ví du 1: Tìm số tự nhiên x, biết : 63,9 < x < 65,8 x = 64 ; 65 -> Học sinh thường tìm thiếu giá trị ( x =65 ). Như vậy, bài giải còn chưa đầy đủ, chưa xét các trường hợp có thể xảy ra của bài toán. Ví dụ 2: ( Bài 1 – SGK, trang 103) Tính diện tích của mảnh đất có kích thước theo hình vẽ bên. Bài toán này có nhiều cách giải khác nhau học sinh chưa tìm tòi sáng tạo nhiều cách giải và xem xét cách nào là gọn nhất. Chẳng hạn, có thể giải theo các cách chia hình dưới đây: 2.2/. Khảo sát chất lượng đầu năm: Lớp Tổng số học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 5A2 39 25 64,1 11 28,2 2 5,1 1 2,6 3. Giải pháp về rèn kỹ năng giải toán cho học sinh lớp 5: 3.1/. Giải pháp 1: Xác định dạng toán * Các dạng toán trong chương trình toán lớp 5: Ôn tập: - Tìm số trung bình cộng. - Tìm hai số biết tổng và hiệu của hai số đó. - Tìm hai số biết tổng và tỉ số của hai số đó. - Tìm hai số biết hiệu và tỉ số của hai số đó. Bổ sung và học mới: - Bài toán liên quan đến rút về đơn vị. - Bài toán về tỉ số phần trăm. - Bài toán về chuyển động đều. - Bài toán có nội dung hình học (chu vi, diện tích, thể tích). * Xác định dạng toán: Trong quá trình giải toán, học sinh phải nắm được các dạng toán thì việc vận dụng kiến thức vào giải toán mới có hiệu quả: nhanh, đúng hướng, chính xác. Ví dụ: (Bài 1 - SGK trang 19). Mua 12 quyển vở hết 24.000 đồng. Hỏi mua 30 quyển vở như thế hết bao nhiêu tiền? -> Dạng toán: Bài toán liên quan đến tỉ lệ. (“Tỉ lệ thuận” -> Chưa đưa ra khái niệm, thuật ngữ). Đây là bài toán liên quan đến tỉ lệ, học sinh phải xác định được hai đại lượng (quyển vở; giá tiền); đại lượng 1 (quyển vở) tăng thì đại lượng 2 (giá tiền) cũng tăng (số lần như nhau). Từ đó, lựa chọn phương pháp giải mới đúng hướng (“Rút về đơn vị”). Tìm giá tiền 1 quyển vở -> Tìm số tiền mua 30 quyển vở. 3.2/. Giải pháp 2: Tìm các bước giải toán: (Việc nắm các bước giải toán rất quan trọng). * Quá trình giải toán được tiến hành qua 4 bước: Bước 1: Phân tích đề bài. Bước 2: Lập mối quan hệ. Bước 3: Lập kế hoạch giải - giải. Bước 4: Kiểm tra kết quả. *. Thực hiện các bước giải toán: Bước 1: Phân tích đề bài. - Học sinh cần đọc kỹ đề bài để hiểu nội dung (cách diễn đạt, ý nghĩa - nội dung đề). - Phân tích đề: dữ kiện đã cho, dữ kiện chưa biết (dữ kiện ẩn), quan hệ giữa các dữ kiện đã cho và dữ kiện cần tìm. Ví dụ: (Bài 4 - SGK trang 20). Một người làm trong 2 ngày được trả 72.000 đồng tiền công. Hỏi với mức trả công như thế, nếu làm trong 5 ngày thì người đó được trả bao nhiêu tiền? - Bài toán cho biết gì? (Làm trong 2 ngày được trả 72.000 đồng) -> Dữ kiện đã cho. - Bài toán yêu cầu tìm gì? (Làm trong 5 ngày được trả bao nhiêu tiền?) -> Dữ kiện cần tìm. -> Quan hệ giữa dữ kiện đã cho và dữ kiện cần tìm là: Quan hệ tỉ lệ (đại lượng ngày công tăng bao nhiêu lần thì đại lượng tiền công cũng tăng bấy nhiêu lần). Bước 2: Lập mối quan hệ. Cần tập trung vào các yếu tố cơ bản của bài toán, tóm tắt bài toán dưới dạng ngắn gọn, cô đọng (bằng lời, hình vẽ hoặc sơ đồ đoạn thẳng,...). Ví dụ 1: (Bài 1- SGK trang 22). Một lớp học có 28 học sinh, trong đó số em nam bằng 2/ 5 số em nữ. Hỏi lớp học đó có bao nhiêu em nữ, bao nhiêu em nam? ? học sinh Tóm tắt: 28 học sinh Nam: ? học sinh Nữ: Ví dụ 2: (Bài 3 - SGK trang 22). Một ô tô cứ đi 100km thì tiêu thụ hết 12l xăng. Nếu ô tô đó đi quãng đường 50km thì tiêu thụ hết bao nhiêu lít xăng? Tóm tắt: 100km: 12l xăng 50km: ... l xăng? Ví dụ 3: (Bài 2 - SGK trang 24). Một con chim sâu cân nặng 60g. Một con đà điểu cân nặng 120kg. Hỏi con đà điểu nặng gấp bao nhiêu lần con chim sâu? Tóm tắt: Chim sâu: 60g. Đà điểu: 120kg. Đà điểu nặng gấp ... lần chim sâu? Ví dụ 4: Bài 4 (Đề thi học sinh giỏi cấp Tỉnh, lớp 5, năm học 2009 - 2010). Cho hình thang ABCD có đáy bé AB = 9cm, đáy lớn BC = 16cm. Trên đáy lớn lấy điểm M sao cho DM = 7cm. Nối điểm B với điểm M được tam giác BMC có diện tích là 37,8 cm2. Tính diện tích hình thang ABCD. + Vẽ hình: Bước 3: Lập kế hoạch giải - giải: a. Tìm hướng giải: Vận dụng phương pháp phân tích và tổng hợp. (Không thể thiếu bước này trong giải toán). Ví dụ: (Bài 4 - SGK trang 30). Một khu đất hình chữ nhật có chiều dài 200m, chiều rộng bằng 3/4 chiều dài. Hỏi diện tích khu đất đó bằng bao nhiêu mét vuông? Bằng bao nhiêu héc-ta? - Muốn tính diện tích khu đất hình chữ nhật phải biết gì? (Chiều dài? m, chiều rộng? m). - Chiều dài biết chưa? (Đã biết chiều dài: 200m). - Chiều rộng biết chưa? (Chiều rộng bằng 3/4 chiều dài). - Tìm chiều rộng bằng cách nào? (Lấy chiều dài : 4 ´ 3 hoặc chiều dài ´ 3/4) - Biết chiều dài, biết chiều rộng -> Tính diện tích ta làm thế nào? (Lấy chiều dài ´ chiều rộng). - Để đơn vị diện tích bằng héc - ta, ta phải làm gì? (Đổi m2 -> ha). Sơ đồ kế hoạch giải như sau: Diện tích khu đất (?m2, ?ha). Chiều dài ´ Chiều rộng Chiều dài : 4 ´ 3 (hoặc: Chiều dài ´ 3/4) b. Giải bài: Thực hiện các phép tính nêu trong bước tìm hướng giải. + Bài giải gồm: Câu lời giải Phép tính Đáp số. Ví dụ: Bài giải của bài 4 - SGK trang 30 (nêu ở phần a). Chiều rộng khu đất hình chữ nhật là: 200 ´ 3/4 = 150 (m) Diện tích khu đất hình chữ nhật là: 200 ´ 150 = 30.000 (m2) 30.000 m2 = 3 ha Đáp số: 30.000 m2; 3ha + Lưu ý: Học sinh thường mắc phải lỗi trình bày bài giải như: Câu lời giải viết lùi ra thụt vào và còn viết tắt, phép tính không thẳng nhau, đáp số viết vào giữa trang giấy, ... -> Giáo viên cần uốn nắn kịp thời cho học sinh, chẳng hạn: Đầu các câu lời giải viết thẳng nhau và không được viết tắt; đầu phép tính viết thẳng đầu phép tính, đáp số viết lùi về bên phải lời giải, có tên đơn vị ở sau kết quả tính và cho trong ngoặc đơn,... Bước 4: Kiểm tra kết quả. Gồm: Đọc lại, kiểm tra các bước giải. Tìm cách giải khác để đối chiếu, so sánh. Thay dữ kiện đã tìm kiểm tra tính logic của đề toán. c. Giải pháp 3: Rèn kỹ năng giải toán: - Thực hành giải các bài toán từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, đủ các dạng toán. - Tìm tòi, sáng tạo trong giải toán bằng cách: giải nhiều cách khác nhau và biết cách đơn giản nhất, ngắn gọn nhất, phù hợp trình độ nhận thức. Ví dụ: (Bài 1 - SGK trang 19) Mua 12 quyển vở hết 24.000 đồng. Hỏi mua 30 quyển vở như thế hết bao nhiêu tiền? * Bài này có thể giải 2 cách: (Vận dụng sau khi học “Ôn tập và bổ sung về giải toán”) -> Bài toán liên quan đến quan hệ tỉ lệ. + Cách 1: (Đối tượng học sinh đại trà) -> Phương pháp “rút về đơn vị” Giá tiền 1 quyển vở là: 24.000 : 12 = 2.000 (đồng) Số tiền mua 30 quyển vở là: 2.000 ´ 30 = 60.000 (đồng) Đáp số: 60.000 đồng + Cách 2: (Đối tượng học sinh khá - giỏi) -> Phương pháp “tìm tỉ số”. 30 quyển vở gấp 12 quyển vở số lần là: 30 : 12 = 5/2 (lần) Số tiền mua 30 quyển vở là: 24.000 ´ 5/2 = 60.000 (đồng) Đáp số: 60.000 đồng * Sau khi học về số thập phân, học sinh có thể giải cách 2 như sau: 30 quyển vở gấp 12 quyển vở số lần là: 30 : 12 = 2,5 (lần) Số tiền mua 30 quyển vở là: 24.000 ´ 2,5 = 60.000 (đồng) Đáp số: 60.000 đồng Ví dụ 2: (Bài 2 - SGK trang 104). Một khu đất có kích thước theo hình vẽ dưới đây. Tính diện tích khu đất đó. * Bài toán này củng cố kỹ năng thực hành tính diện tích các hình đã học. * Có thể giải nhiều cách: + Cách 1: * Chia khu đất thành 3 hình chữ nhật: (1), (2), (3) như hình vẽ, hình (1) và (3) có kích thước bằng nhau. * Tính: Diện tích hình chữ nhật (1) và (3) là: (100,5 ´ 30) ´ 2 = 6030 (m2) Diện tích hình chữ nhật 2 là: (100,5 - 40,5) ´ (50 - 30) = 1200 (m2) Diện tích khu đất là: 6030 + 1200 = 7230 (m2) Đáp số: 7230 m2. + Cách 2: * Chia khu đất thành 3 hình chữ nhật: (1), (2), (3) như hình vẽ, hình (1) và (3) có kích thước bằng nhau. * Tính: Diện tích hình chữ nhật 1 và 3 là: (40,5 ´ 30) ´ 2 = 2430 (m2) Diện tích hình chữ nhật 2 là: (50 + 30) ´ (100,5 - 40,5) = 4800 (m2) Diện tích khu đất là: 2430 + 4800 = 7230 (m2) Đáp số: 7230 m2. + Cách 3: * Hình chữ nhật ABCD bao phủ khu đất như hình vẽ: * Tính: Diện tích hình chữ nhật ABCD là: (100,5 + 40,5) ´ (50 + 30) = 11280 (m2) Diện tích hình chữ nhật (1) và (2) (phần trống) là: (50 ´ 40,5) ´ 2 = 4050 (m2) Diện tích khu đất là: 11280 - 4050 = 7230 (m2) Đáp số: 7230 m2. + Cách 4: * Chia khu đất thành 3 hình chữ nhật: (1), (2), (3) như hình vẽ: * Tính: Diện tích hình chữ nhật (1) là: 100,5 ´ 30 = 3015 (m2) Diện tích hình chữ nhật (2) là: (100,5 - 40,5) ´ 50 = 3000 (m2) Diện tích hình chữ nhật (3) là: 40,5 ´ 30 = 1215 (m2) Diện tích khu đất là: 3015 + 3000 + 1215 = 7230 (m2) Đáp số: 7230 m2. + Cách 5: * Ta cắt ghép hình chữ nhật (1) (như hình vẽ) Hình chữ nhật ABCD bao phủ khu đất; phần trống là hình chữ nhật (2). * Tính: Diện tích hình chữ nhật ABCD là: 100,5 ´ (50 + 30) = 8040 (m2) Diện tích hình chữ nhật (2) là: 40,5 ´ (50 - 30) = 810 (m2) Diện tích khu đất là: 8040 - 810 = 7230 (m2) Đáp số: 7230 m2. 4. Hiệu quả của việc áp dụng các giải pháp Qua nghiên cứu vận dụng các giải pháp đã nêu vào trong giảng dạy môn Toán ở lớp 5A2 do tôi chủ nhiệm (năm học 2010 - 2011), chất lượng bộ môn có sự chuyển biến rõ rệt, học sinh đã nắm vững các dạng toán, giải khá thành thạo ở từng dạng; đặc biệt,các em đã có kỹ năng giải toán nắm chắc các bước giải và có sự sáng tạo, diễn đạt ngắn gọn, súc tích, đảm bảo tính logic toán học.Cụ thể kết quả đạt được về chất lượng môn Toán học kì I năm học 2010 – 2011 như sau: Lớp Tổng số học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 5A2 39 30 97,4 1 2,6 Phần thứ ba: kết luận và đề xuất 1. Kết luận chung: Dạy học môn Toán nói chung và dạy giải toán nói riêng rất quan trọng, cấp bách và cần thiết. Việc giúp học sinh có được kinh nghiệm giải toán thông qua luyện tập, củng cố, vận dụng kiến thức, luyện kỹ năng tính toán đã góp phần phát triển năng lực tư duy, óc suy luận hợp lí, khả năng quan sát, tìm tòi, khám phá, phát hiện và giải quyết các vấn đề gần gũi trong cuộc sống, giúp học sinh phát triển trí tưởng tượng, chăm học, hứng thú học toán. Giáo dục các em có phương pháp tự học, làm việc chủ động, linh hoạt, sáng tạo, khoa học; khắc phục ở học sinh cách suy nghĩ máy móc, dập khuôn. 2. Bài học kinh nghiệm: Để rèn kỹ năng giải toán cho học sinh lớp 5 đạt hiệu quả cao, cần lưu ý các vấn đề sau: - Nắm chắc các dạng toán, các bước giải toán ở từng dạng toán. - Thành thạo 4 bước giải 1 bài toán: - Thực hành giải toán ở mức độ khó dần, nên tìm tòi nhiều cách giải. Với các giải pháp nêu trên, tôi đã giúp học sinh giải quyết được những khó khăn trong quá trình giải toán, giúp các em vững kiến thức, tự tin về kỹ năng giải toán và gợi ở các em lòng yêu thích môn Toán, ham mê giải toán. Qua đó, đã góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán. 3. Đề xuất, kiến nghị - Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo Thành phố: Tổ chức chuyên đề môn Toán theo cụm trong mỗi năm học. - Đối với Nhà trường: Trao đổi kinh nghiệm giảng dạy toán trong tổ và khối chuyên môn thường xuyên. - Đối với giáo viên: Cần nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học, nắm vững cơ sở lý luận và các phương pháp giải toán. Đặc biệt, cần nắm vững nội dung chương trình, sách giáo khoa, hệ thống kiến thức cơ bản, hệ thống các dạng bài tập mang tính đặc thù và phương pháp giải từng loại bài một cách chặt chẽ. Trên đây là một số giải pháp “Rèn kỹ năng giải toán cho học sinh lớp 5” có thể vận dụng cho các khối lớp ở các trường tiểu học. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp , của tổ khối chuyên môn, hội đồng khoa học Nhà trường, Phòng Giáo dục và Đào tạo Thành phố để chất lượng dạy học môn Toán đạt kết quả cao. Hòa Bình, ngày 18 tháng 2 năm 2011 Người viết sáng kiến Nguyễn Thị Mai Hạnh Nhận xét, đánh giá của hội đồng khoa học nhà trường Phòng giáo dục đào tạo thành phố Hòa Bình Trường tiểu học hữu nghị ____________________________ Sáng kiến Rèn kĩ năng giải toán cho học sinh lớp 5 Họ và tên: Nguyễn Thị Mai Hạnh Hòa Bình, tháng 2 năm 2011
Tài liệu đính kèm: