Tài liệu hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn

Tài liệu hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn

1.1 Bối cảnh ra đời tài liệu hướng dẫn

1.1.1 Tình trạng SHCM ở Việt Nam hiện nay

SHCM một cụm từ rất quen thuộc đối với mỗi nhà giáo Việt Nam bởi lẽ đây là việc làm thường xuyên có tính định kỳ được xây dựng thành kế họach. SHCM nhằm mục đích nâng cao năng lực chuyên môn cho mỗi thầy cô giáo từ đó nâng cao chất lượng học tập cho học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.

SHCM được thực hiện hàng tuần ở tất cả các nhà trường. Mỗi giáo viên đều có một cuốn sổ dự giờ, sổ ghi chép nghiệp vụ cùng với nhiều loại sổ sách hồ sơ chuyên môn khác như sổ điểm, sổ chủ nhiệm, sổ báo bài, giáo án .

SHCM có nội dung, hình thức, phương pháp mỗi địa phương áp dụng và thực hiện một cách khác nhau tuỳ thuộc vào nhu cầu của giáo viên hoặc mong muốn của lãnh đạo các cấp quản lý giáo dục ở từng đơn vị, song tựu trung lại có một số hình thức và phương pháp tổ chức thường gặp là :

- SHCM theo tổ khối thuộc đơn vị trường (ở tiểu học thường theo tổ 1, tổ 2,3 và tổ 4,5), trong tổ phân công một giáo viên soạn bài (thiết kế bài dạy) lên lớp dạy minh họa, cả tổ dự giờ của giáo viên đó. Sau dự giờ tổ chức họp rút kinh nghiệm phân tích tìm ra những ưu điểm và tồn tại của giờ dạy, một số trường còn xếp loại chung giờ dạy đạt tốt, khá, trung bình, yếu.

 

doc 89 trang Người đăng hang30 Lượt xem 629Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu hướng dẫn
sinh hoạt chuyên môn
Mục lục
Các chữ viết tắt
BHMH
Bài học minh họa
CBGDĐP
Cán bộ giáo dục địa phương
CNTT
Công nghệ thông tin
GD
Giáo dục
GD-ĐT
Giáo dục – Đào tạo
GV
Giáo viên
HT
Học tập
HS
Học sinh
PPDH
Phương pháp dạy học
SĐĐT
Sơ đồ đoạn thẳng
SGK
Sách giáo khoa
SGV
Sách giáo viên
SHCM
Sinh hoạt chuyên môn
THSP
Trung học sư phạm
VHNT
Văn hóa nhà trường
Chương 1: Giới thiệu
Bối cảnh ra đời tài liệu hướng dẫn
Tình trạng SHCM ở Việt Nam hiện nay
SHCM một cụm từ rất quen thuộc đối với mỗi nhà giáo Việt Nam bởi lẽ đây là việc làm thường xuyên có tính định kỳ được xây dựng thành kế họach. SHCM nhằm mục đích nâng cao năng lực chuyên môn cho mỗi thầy cô giáo từ đó nâng cao chất lượng học tập cho học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục nói chung. 
SHCM được thực hiện hàng tuần ở tất cả các nhà trường. Mỗi giáo viên đều có một cuốn sổ dự giờ, sổ ghi chép nghiệp vụ cùng với nhiều loại sổ sách hồ sơ chuyên môn khác như sổ điểm, sổ chủ nhiệm, sổ báo bài, giáo án .... 
SHCM có nội dung, hình thức, phương pháp mỗi địa phương áp dụng và thực hiện một cách khác nhau tuỳ thuộc vào nhu cầu của giáo viên hoặc mong muốn của lãnh đạo các cấp quản lý giáo dục ở từng đơn vị, song tựu trung lại có một số hình thức và phương pháp tổ chức thường gặp là : 
- SHCM theo tổ khối thuộc đơn vị trường (ở tiểu học thường theo tổ 1, tổ 2,3 và tổ 4,5), trong tổ phân công một giáo viên soạn bài (thiết kế bài dạy) lên lớp dạy minh họa, cả tổ dự giờ của giáo viên đó. Sau dự giờ tổ chức họp rút kinh nghiệm phân tích tìm ra những ưu điểm và tồn tại của giờ dạy, một số trường còn xếp loại chung giờ dạy đạt tốt, khá, trung bình, yếu. 
- Có hình thức SHCM lớn hơn là có nơi tổ chức SHCM theo cụm trường (nghĩa là từ bốn, năm trường trở lên trong cùng khu vực). Các giáo viên cùng tổ khối chuyên môn tổ chức dự giờ sau đó cũng họp phân tích rút kinh nghiệm giờ dạy, qua đó giáo viên giao lưu trao đổi chuyên môn.
- Còn một hình thức nữa cũng được gọi là SHCM đó là mời các chuyên gia, chuyên viên cấp trên về nói chuyện chuyên đề hoặc lãnh đạo nhà trường phổ biến một số cái mới, một số công việc hay quy chế, qui định về chuyên môn. 
Mức độ thành công và hiệu quả của SHCM trong các cơ sở giáo dục bấy lâu nay nhìn chung còn rất mờ nhạt, hiệu quả thấp. Có nhiều nguyên nhân trước hết là các cấp quản lý giáo dục chưa xác định rõ và đúng mục đích, ý nghĩa của SHCM, còn xem nhẹ SHCM như một việc làm mang tính hình thức bắt buộc. Thông thường họ chỉ xác định mục đích của SHCM là để làm mẫu (giáo viên giỏi dạy để giáo viên khác học tập) hoặc để đánh giá năng lực chuyên môn của giáo viên làm căn cứ xếp loại thi đua.
Về phía giáo viên, việc thực hiện SHCM cũng tương tự như vậy. Họ chưa hiểu sâu sắc tác dụng của SHCM là giúp nâng cao năng lực chuyên môn, mang lại hiệu quả giờ dạy cho chính mình. Giáo viên tham gia dự giờ của đồng nghiệp một cách câu nệ, áp đặt và không có chính kiến. Khi tham dự SHCM, họ phân tích giờ học tập trung vào tác phong lời nói của người dạy, nội dung bài dạy có đầy đủ kiến thức không, có bám sát sách giáo khoa và sách giáo viên không, có đúng quy trình khâu bước không, có đặt nhiều câu hỏi phát huy trí lực học sinh không....Vì những lí do nói trên mà SHCM từ lâu đã trở thành gánh nặng miễn cưỡng đối với giáo viên. Nhiều người không muốn tham gia dạy minh họa vì dễ bị chỉ trích, phê phán và không muốn tham dự SHCM vì tính hiệu quả của nó không cao. 
Do vậy, việc đổi mới SHCM là rất cần thiết. Làm thế nào để SHCM trở thành “món ăn tinh thần” không thể thiếu của mỗi thầy cô giáo? Làm thế nào để SHCM phải mang lại hiệu quả thiết thực nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và mang lại hiệu quả học tập cho học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục? 
Mỗi buổi SHCM thầy cô sẽ học tập được một điều gì đó thật hữu ích cho chuyên môn nghiệp vụ của mình. Thông qua SHCM mỗi thầy cô giáo thấy hào hứng tham gia nhiệt tình và đóng góp tích cực xây dựng ngày một phong phú phong trào học tập và nghiên cứu khoa học cho nghiệp vụ chuyên môn của nghề dạy học.
Các vấn đề liên quan đến việc học của học sinh 
Để học sinh tham gia các hành động học tập thực sự, có ý nghĩa và có chất lượng, các em cần có các hành động: tìm kiếm, nghiên cứu, phân tích, thực hành, chia sẻ, với hành động học tập cụ thể: thu thập, đọc, nghe, xem, quan sát, suy nghĩ, so sánh, phân loại, áp dụng, sáng tạo, thảo luận, trình bày, v.v. Các hành động đó phải dựa trên cơ sở của sự hứng thú, sự chủ động, sự thoải mái, hợp tác, có đủ thời gian, được chia sẻ và phản hồi,.
Tuy nhiên, việc học của học sinh hiện nay có 3 vấn đề cơ bản: (1) Môi trường học tập (môi trường tinh thần) chưa thân thiện, thoải mái; (2) Học sinh chưa thấy hứng thú thực sự nên học tập chưa tích cực, chủ động; (3) Chất lượng việc học chưa cao.
(1) Môi trường lớp học chưa thực sự thân thiện, thoải mái. 
Môi trường lớp học thân thiện và thoải mái là điều kiện quan trọng để học sinh học tập tốt. Môi trường đó là môi trường tinh thần, thể hiện chủ yếu ở mối quan hệ giữa các thành viên trong lớp học. 
Trong nhiều lớp học, quan hệ giữa giáo viên và học sinh còn thể hiện tính khuôn mẫu cứng nhắc, chưa thực sự tin cậy và thoải mái; thiếu quan tâm lắng nghe lẫn nhau; thậm chí có lớp học còn tính kỷ luật cao, khác xa với mối quan hệ giao tiếp thông thường làm cho việc học không thoải mái, thiếu tự nhiên và hấp dẫn. Một số giáo viên tự cho mình quyền lực tối cao trong lớp học và luôn phân biệt bằng khoảng cách với học sinh. Một số giáo viên bắt các em phải lễ phép và tôn trọng đến mức quá đáng, thường xuyên bắt lỗi học sinh và làm cho những em đó sợ sệt, lo lắng, không dám trình bày với thầy, cô giáo. Một số giáo viên lầm tưởng rằng quản lý lớp học bằng kỷ luật, làm cho học sinh biết sợ sẽ tạo ra nề nếp tốt. Đôi khi, vì bất lực mà giáo viên có xử sự bằng lời nói và hành vi tiêu cực với học sinh. Chúng ta có thể thấy rõ tính kỷ luật cứng nhắc ở những khẩu hiệu trong lớp học như : “Kỷ luật, trật tự”, “Kỷ cương và nề nếp”, những tiếng gõ thước mạnh và liên hồi để nhắc học sinh trật tự, chú ý vào bài học hay việc học sinh luôn phải “ngồi đẹp” theo yêu cầu giáo viên, chỉ được đứng lên, ngồi xuống khi được phép của giáo viênGiáo viên thường đưa học sinh vào nề nếp, kỷ luật lớp học theo ý chủ quan vì suy nghĩ các em phải có nghĩa vụ và trách nhiệm như thế và quên mất những quyền lợi cơ bản của các em. Điển hình của những lớp học có kỷ luật còn thể hiện ở việc bố trí kiểu ngồi học của học sinh phổ biến theo mô hình tất cả học sinh đều ngồi nhìn hướng lên phía bục giảng, học sinh khó có thể tự nhiên khi trao đổi, cộng tác với bạn học khi các em thấy cần thiết.
Hơn thế nữa, quan hệ lớp học chưa thể hiện sự chấp nhận lẫn nhau. Sự chấp nhận lẫn nhau giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau là hiểu nhau thực sự, thừa nhận thực tại, tin cậy và lắng nghe lẫn nhau. Trong những giờ học, chúng ta thường thấy chủ yếu giáo viên hỏi - học sinh trả lời nhưng hiếm khi thấy các em có cơ hội chủ động hỏi giáo viên, bạn bè hoặc thắc mắc những gì mình chưa hiểu. Giáo viên chưa chấp nhận sự khác nhau của từng em học sinh. Cụ thể, họ có xu hướng quan tâm nhiều hơn, hài lòng, ưu ái và chấp nhận những học sinh nhanh chóng tiếp thu bài học, làm tốt các nhiệm vụ do giáo viên giao cho và có thái độ ngược lại với các em học sinh còn lại. Hơn thế nữa, nhiều cán bộ quản lý và giáo viên luôn cố đòi hỏi và phấn đấu đến “sự đồng đều” về kết quả, thành tích học tập của học sinh. 
Chúng ta cũng thường thấy giáo viên phàn nàn về chất lượng hoặc kết quả học tập của các em học sinh (đặc biệt các học sinh có lực học trung bình trở xuống) đồng thời lấy các lý do từ học sinh (chưa chăm học, chưa chú ý nghe giảng, tiếp thu chậm,) để giải thích cho những kết quả đó. Hiếm khi thấy giáo viên nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Họ chưa có thói quen suy nghĩ: mọi việc làm suy cho cùng đều bắt đầu từ việc học của các em và cuối cùng cũng vì kết quả và thành tích học tập của từng em học sinh. Đồng thời, các em đến trường để học vì các em là học sinh (khác giáo viên), khi xem xét kết quả việc học tập của học sinh phải căn cứ từ việc dạy của giáo viên, nếu không có việc học của các em thì không có việc dạy của giáo viên.
Quan hệ lớp học với sự chấp nhận lẫn nhau là điều kiện đặc biệt quan trọng để tạo nên sự tương tác và phản hồi đa chiều trong các hoạt động học tập. Khi không có sự chấp nhận của giáo viên, các em cũng khó thực sự chấp nhận giáo viên. Giáo viên biết chấp nhận học sinh thì học sinh sẽ chấp nhận giáo viên, khi đó các học sinh cũng sẽ biết chấp nhận lẫn nhau. Khi đã chấp nhận và tôn trọng lẫn nhau, học sinh sẽ cộng tác với giáo viên và bạn bè trong giờ học. Lúc đó, lớp học sẽ trở nên nề nếp mà thoải mái, việc học sẽ thân thiện, có chất lượng hơn.
Nhiều giáo viên vẫn nghĩ rằng, môi trường lớp học đã thân thiện và thoải mái khi lớp học đã được trang trí sinh động, đẹp mắt hoặc treo các khẩu hiệu mới, kê bàn ghế theo cách mới. Nhưng thực tế thì việc làm đó đã thực sự đem lại sự thân thiện và thoải mái trong học tập của học sinh chưa? Điều đó, nếu không có sự quan sát, suy ngẫm mới thì giáo viên không dễ dàng nhận ra. 
Trong nhà trường, học sinh học theo các lớp từ đầu cấp đến cuối cấp. Nếu suốt trong quá trình đó, môi trường lớp học thường xuyên thiếu thân thiện và thoải mái thì sẽ tạo ra nề nếp và thói quen học tập truyền thống, thụ động. Do đó học sinh không thể có động lực tham gia hoạt động học tập một cách chủ động, tích cực.
(2) Học sinh không hứng thú trong khi học (biểu hiện rõ ở thái độ, lời nói, nét mặt, cử chỉ ánh mắt, hành vi). 
Đứng trước cửa lớp những giờ học hàng ngày, chúng ta dễ bắt gặp tình trạng có những em học sinh uể oải, rầu rĩ và ánh mắt thiếu tập trung vào bài học. Đó là do nội dung bài học không phù hợp với các các em. Học sinh học giỏi thì không thích học vì bài học quá dễ và không thú vị, trong khi học sinh yếu thì không hiểu bài, không theo kịp tiến độ bài học. Khi nội dung bài học nhiều về số lượng, cần nhiều hoạt động nên giáo viên phải đẩy nhanh tốc độ bài học, các em học sinh trung bình trở xuống dễ chán nản và bị tụt lại phía sau, thậm chí nhiều em học sinh yếu bị giáo viên bỏ quên. Các em thấy chán nản, không hứng thú do nội dung bài học và phương pháp tổ chức hoạt động học tập của giáo viên lệ thuộc vào SGK và SGV nên không phù hợp bản thân. 
Ngoài ra, chúng ta còn có thể bắt gặp hình ảnh những lớp học các em học sinh thi đua nhau chơi trò chơi, cười cợt, thi đ ... ộng tấm lòng sẵn sàng tiếp nhận những ý kiến của người khác và môi trường học tập tốt nhất đối với giáo viên chính là SHCM. 
Chúng ta dễ dàng nhận thấy nếu sau giờ dạy giáo viên dạy minh họa phải nghe những ý kiến phát biểu phê bình chỉ trích, áp đặt mang tính cá nhân của người dự, không được hỗ trợ giúp đỡ khi chuẩn bị bài và cũng không được đồng nghiệp chia sẻ những khó khăn khi dạy... thì chắc chắn không ai muốn dạy minh họa. Để giúp giáo viên mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia dạy minh họa lãnh đạo nhà trường thực hiện giải pháp: Hiệu trưởng là người đầu tiên dạy minh họa, tiếp theo là phó hiệu trưởng, các tổ trưởng, khối trưởng rồi đến các giáo viên. Yêu cầu từ khâu chuẩn bị đến khi tiến hành bài dạy, tất cả các thành viên đều ủng hộ sự nỗ lực của người dạy minh họa. Cán bộ quản lý nhà trường là những người đi đầu trong việc xây dựng mối quan hệ hỗ trợ hợp tác và tinh thần học hỏi giữa các giáo viên qua việc chia sẻ ý kiến về đặt mục tiêu, xây dựng ý tưởng, chuẩn bị nguyên liệu, phương tiện đồ dùng dạy học, cách thức tiến hành tổ chức các hoạt động học tập trên lớp với với đồng nghiệp. Như vậy đã tạo cho giáo viên niềm tin vào chính mình. Sự giúp đỡ ủng hộ của đồng nghiệp là nguồn cổ vũ động viên cho người dạy. Hiện nay, hiện tượng tránh né đùn đẩy nhau dạy minh họa không diễn ra nữa mà thay vào đó là sự hứng khởi, mong muốn được dạy minh họa để có nhiều cơ hội học tập.
Qua tìm hiểu thực tế việc tổ chức SHCM tại trường năm 2006 của trường Lão Hộ và các trường tiểu học khác gần như không có điểm gì khác so với SHCM truyền thống. Sau khi tổ chức SHCM hơn một năm học mà giáo viên không học được điều gì qua các buổi SHCM, chất lượng giáo dục học sinh không có sự chuyển biến thì việc họ mất đi hứng thú và niềm tin với SHCM là điều hiển nhiên. Tại sao lại như vậy? Thực ra cả cán bộ quản lý và giáo viên của nhà trường đều chưa hiểu đúng và đầy đủ về mục đích, ý nghĩa và phương pháp tiến hành SHCM tại trường. Họ không nắm được các yêu cầu, điều kiện cần thiết để tiến hành SHCM thành công mà tiến hành SHCM một cách mò mẫm. Do vậy mà trường Lão Hộ cũng như rất nhiều trường khác đã thất bại và hiện nay vẫn có trường thất bại. Thật vậy, vấn đề đặt ra với tất cả các nhà trường muốn tổ chức SHCM thành công là cần phải có cán bộ lãnh đạo nhà trường hiểu được đầy đủ mục đích ý nghĩa, nắm được kĩ thuật và phương pháp tổ chức SHCM mới vì kiến thức, lý luận là kim chỉ nam cho mọi hành động thực tiễn. Mục đích cao nhất của SHCM là xây dựng một cộng đồng học tập trong đó mọi giáo viên và mọi em học sinh đều được học tập và phát triển (Xem thêm phần 2.2.1 Chia sẻ tầm nhìn). Điều này chỉ có được khi thiết lập được mối quan hệ lắng nghe giữa các giáo viên và mối quan hệ tốt đẹp trong lớp học. Sau đó, cần phải thực hiện ba nguyên tắc đổi mới bài học hàng ngày, đó là giới thiệu đồ dùng học tập, nguyên liệu thực tế, hoạt động nhóm và chia sẻ ý kiến, ý tưởng. Để có hiểu biết sâu sắc về SHCM, trong hoàn cảnh nguồn lực hạn chế hiện nay, các cán bộ lãnh đạo nhà trường và tất cả giáo viên cần phải đọc đi, đọc lại nhiều lần tài liệu hướng dẫn SHCM này và các tài liệu của Dự án JICA về giáo dục lấy học sinh làm trung tâm. Ở đây, đọc cần kết hợp với suy ngẫm, thực hành và tiếp tục suy ngẫm trong quá trình tiến hành SHCM để rút ra những bài học kinh nghiệm của riêng bản thân.
 Năm 2007 trường tiểu học Lão Hộ được thành lập, hiệu trưởng là thành viên nhóm công tác của dự án hợp tác kĩ thuật giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Nhật Bản về bồi dưỡng giáo viên. Với niềm tin, sự am hiểu về SHCM của hiệu trưởng là yếu tố quan trọng để nhà trường triển khai SHCM thành công song việc triển khai tiến SHCM tại trường vẫn gặp phải không ít những khó khăn trong việc thay đổi thói quen cũ của giáo viên như khi dự giờ giáo viên thường ngồi cuối lớp để quan sát người dạy, khi chia sẻ ý kiến vẫn phê bình chỉ trích đồng nghiệp, chưa có ý thức lắng nghe đồng nghiệp phát biểu... Sau học kỳ đầu, việc này vẫn thường xuyên tái diễn thậm chí một hai năm sau vẫn còn. Để thay đổi những thói quen cũ của giáo viên không phải một sớm một chiều mà làm được nếu nóng vội dễ làm cho bầu không khí buổi SHCM trở nên căng thẳng mà cần phải kiên trì và có những tác động phù hợp của cán bộ quản lý nhà trường khi có tình huống. Ví dụ: để thay đổi vị trí quan sát giờ học của giáo viên, khi dự giờ hiệu trưởng yêu cầu sắp xếp lại vị trí chỗ ngồi của học sinh bằng cách kê bàn ghế sát cuối lớp để giáo viên không có chỗ ngồi ở phía sau học sinh, bắt buộc họ phải đứng ở phía trên hai bên lớp học để quan sát. Đồng thời, hiệu trưởng đưa ra một hình ảnh so sánh: nếu một người mẹ đưa con đến gặp bác sĩ để chữa bệnh cho con nhưng bác sĩ không để ý gì đến con mà cứ quan sát những biểu hiện lâm sàng của mẹ và khám mẹ để chữa bệnh cho con thì bác sĩ có chữa bệnh được cho con không? Đối chiếu với việc khi dự giờ, giáo viên cứ quan sát người dạy mà không để ý gì tới học sinh thì có khác gì người bác sĩ kia không? Giáo viên có hiểu biết gì về học sinh không? Khi không có hiểu biết gì về học sinh thì giáo viên có thể hỗ trợ các em được không? Ví dụ hài hước trên đã thực sự làm thay đổi thói quen quan sát của giáo viên khi dự giờ đồng nghiệp. Vậy ngoài việc hiểu được mục đích ý nghĩa và phương pháp tiến hành SHCM trong thực tiễn tiến hành người cán bộ quản lý cần phải biết vận dụng một cách linh hoạt sáng tạo trong việc giải quyết các tình huống cho phù hợp và đúng hướng và cần phải kiên trì, kiên định với SHCM mới.
Ngoài những khó khăn do nguyên nhân chủ quan, những khó khăn do khách quan như công tác kiểm tra của cấp trên về việc ghi chép trong sổ dự giờ của giáo viên, đánh giá xếp loại giờ dạy trong kỳ thi giáo viên giỏi các cấp, các quy định về thủ tục hành chính chiếm nhiều thời gian của giáo viên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc đổi mới SHCM tại trường. Ví dụ, trong kỳ thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện, việc quan sát thu nhận thông tin về giờ dạy của các giám khảo không giống như cách nhìn nhận về giờ dạy trong SHCM. Giám khảo vẫn ngồi cuối lớp phía sau học sinh chủ yếu quan sát hoạt động dạy học của giáo viên và thời gian tiết dạy. Việc đánh giá giờ dạy trong cuộc thi là bắt buộc song ít khi giám khảo quan tâm xem trong giờ học ấy học sinh được học như thế nào mà chủ yếu đánh giá việc dạy của giáo viên vì vậy mà kết quả cuộc thi có thể thiệt thòi đối với những giáo viên ở những trường tổ chức SHCM vì họ không đánh bóng và trang điểm cho bài dạy của mình. Khi thanh tra, kiểm tra cán bộ thanh kiểm tra thường đếm số giờ và nhận xét phần ghi chép của giáo viên trong sổ dự giờ xem có sạch sẽ đầy đủ và chi tiết không. Việc này khiến giáo viên lo phần ghi chép tiến trình giờ học nhiều hơn, ảnh hưởng không nhỏ tới việc quan sát và thu nhận thông tin nhận ra điểm trội của giờ học. Để giảm bớt những khó khăn đối với giáo viên trong trường, lãnh đạo trường đã giảm bớt một số thủ tục hành chính như hạn chế họp hành, chỉ họp khi thực sự cần thiết, dành thời gian cho SHCM một tuần mỗi giáo viên được tham gia SHCM một lần, cắt bớt một số loại sổ sách không cần thiết ví dụ như sổ luyện viết chữ đẹp mỗi tuần một đến hai bài mất rất nhiều thời gian của giáo viên để giáo viên có thời gian nghiên cứu trao đổi bài. Nhà trường cũng chấp nhận những thiệt thòi về thành tích danh hiệu thi đua tạm thời của tập thể trường cũng như với cá nhân để tạo điều kiện tốt thúc đẩy SHCM tại trường.
Đến nay qua 3 năm học thực hiện đổi mới SHCM, nhà trường có những thay đổi sau:
Về văn hoá nhà trường:
Mối quan hệ giữa các thành viên trong trường đã từng bước được thay đổi. Tập thể cán bộ giáo viên nhà trường là tập thể đoàn kết nhất trí cao. Mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường ngày càng trở nên thân thiện. Mọi thành viên tôn trọng tin tưởng nhau hơn, tinh thần hỗ trợ học hỏi lẫn nhau của mỗi thành viên được nâng cao. 
Giáo viên hiểu được mục đích ý nghĩa của SHCM mới. Họ có niềm tin vào giải pháp đổi mới nhà trường qua SHCM. Giáo viên hiểu về học sinh đầy đủ và sâu sắc hơn, tôn trọng nhân cách học sinh và quan tâm hỗ trợ giúp đỡ học sinh nhiều hơn trong giờ học. Phương pháp dạy học của họ được cải thiện nhiều. Nhờ đó, học sinh học tập tích cực hơn.
Thái độ của giáo viên đối với SHCM: 
Trước đây, giáo viên trong trường không thích SHCM truyền thống vì những lý do sau: 
- Giáo viên không muốn dạy minh họa vì sợ áp lực về đánh giá xếp loại giờ dạy. Kết quả của một giờ dạy minh họa có thể ảnh hưởng đến thành tích công tác trong cả một năm học. Ít người thông cảm và chia sẻ những khó khăn với giáo viên. Đôi khi giáo viên dạy minh họa có thể trở thành mục tiêu để mọi người phê bình, chỉ trích (họ ví giáo viên dạy minh họa như một con cá nằm trên thớt).
- Giáo viên thiếu tự tin khi phát biểu ý kiến. Vì thiếu thông tin để chia sẻ, họ phải cố gắng tìm ra một vấn đề nào đó của giáo viên để phát biểu. Những lời phát biểu của họ có thể chạm vào lòng tự ái làm cho giáo viên dạy minh họa buồn hoặc có thể bị phản đối vì không đúng ý của cán bộ phụ trách chuyên môn. 
- Những khó khăn trong việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng học sinh không được tháo gỡ nhiều lúc bế tắc không có phương pháp giải quyết. 
- Không khí khi chia sẻ trong buổi SHCM nặng nề.
- Họ nhận thấy SHCM không có tác dụng mấy để cải tiến phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng học sinh.
SHCM mới đã giúp họ tháo gỡ được những khó khăn cơ bản:
- Giáo viên của trường tự tin khi dạy minh họa vì họ được đồng nghiệp giúp đỡ khi chuẩn bị bài dạy, không bị áp lực về đánh giá xếp loại giờ dạy, không bị phê bình chỉ trích sau khi dạy. Họ được chia sẻ ý tưởng của họ với đồng nghiệp, được đồng nghiệp thông cảm, chia sẻ tháo gỡ những khó khăn gặp phải trong khi tiến hành bài dạy.
- Giáo viên tự nhiên khi chia sẻ ý kiến vì ý kiến của họ được mọi người tôn trọng và lắng nghe. Họ có nhiều thông tin để chia sẻ hơn vì biết cách quan sát tốt hơn. 
- Bầu không khí trong SHCM nhẹ nhàng cởi mở hơn. Giáo viên sẵn sàng chia sẻ những băn khoăn thắc mắc để mọi người giúp đỡ. 
- Giáo viên đã quan tâm tới học sinh nhiều hơn trong giờ dạy các em học sinh tự tin hơn mạnh dạn hơn trong giờ học. Trước đây học sinh nhút nhát khi có khách đến thăm trường. Bây giờ, các em không còn sợ người lớn nữa. Các em gần gũi hỏi chuyện khi khách đến trường và tự nhiên trong giờ học khi có người dự giờ. 
- Học sinh được quan tâm hỗ trợ tốt trong giờ học nên chất lượng giáo dục được cải thiện. Điều này đã đem lại niềm tin cho giáo viên về hiệu quả của SHCM.

Tài liệu đính kèm:

  • docKinh nghiem doi moi sinh hoat chuyen mon.doc