Đọc là một kĩ năng quan trọng hàng đầu của con người. Không biết đọc, con người không thể tiếp thu nền văn minh của nhân loại, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Nhờ biết đọc con người có thể tự học, học nữa, học mãi, học suốt đời. Chính vì vậy, dạy đọc ở trường phổ thông, nhất là các lớp đầu cấp, rất quan trọng.
1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: A. Cơ sở lý luận: Đọc là một kĩ năng quan trọng hàng đầu của con người. Không biết đọc, con người không thể tiếp thu nền văn minh của nhân loại, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Nhờ biết đọc con người có thể tự học, học nữa, học mãi, học suốt đời. Chính vì vậy, dạy đọc ở trường phổ thông, nhất là các lớp đầu cấp, rất quan trọng. Trong khi đó, ở trường Tiểu học, việc dạy đọc, bên cạnh những thành công còn nhiều hạn chế. HS của chúng ta chưa đọc được như mong muốn. Kết quả học đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc. Các em chưa nắm chắc được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, tư tưởng, tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản được đọc. GV tiểu học cũng còn lúng túng khi dạy tập đọc. Cần đọc bài tập đọc với giọng như thế nào, làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh, làm thế nào để các em đọc nhanh hơn, hay hơn, diễn cảm hơn. Làm thế nào để các em hiểu văn bản được đọc, nhất là làm thế nào để hiểu được “văn”, làm thế nào để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu; làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các em Hiện nay ngành giáo dục đã và đang tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học mới. Đó là sự đổi mới thật sự cả về chất và lượng ở tất cả các môn học nói chung và môn Tập đọc nói riêng. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, người giáo viên phải nắm được sự đổi mới về phương pháp tổ chức, phát huy tính tích cực của học sinh, nắm vững nội dung chương trình SGK nhằm tổ chức cho học sinh lĩnh hội được đầy đủ các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng thực hành, giáo dục cho học sinh có tư tưởng và tình cảm đúng đắn. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi tiểu học, đọc là con đường đưa các em vào thế giới của những cảm xúc tràn đầy sung sướng và hồi hộp đồng thời mở ra cho các em khả năng hiểu biết thế giới xung quanh qua những tác phẩm văn học, các câu chuyện dành cho lứa tuổi các em. Đọc là môn học mang tính giáo dục cao, là nguồn gốc của tư duy, nó giúp con người nhìn ra vẻ đẹp của thiên nhiên, của quan hệ đạo đức và lao động. Những giá trị thẩm mĩ, giá trị nhân văn trong văn bản giúp các em có óc tưởng tượng phong phú, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức B. Cơ sở thực tiễn: Trong thực tế dạy đọc, GV thường hay phiến diện và không hiểu khái niệm đọc một cách đầy đủ. Nhiều khi chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã chữ - âm, cho rằng đọc là nhìn chữ phát ra thành lời, nghĩa là đã đọc thì phải thành tiếng. Vì vậy khi đánh giá một giờ dạy chỉ dựa vào căn cứ: đếm xem có bao nhiêu học sinh đứng dậy đọc. Ngược lại có Gv lại quan niệm đọc chỉ là để hiểu nghĩa lý những gì được đọc, tức là tìm hiểu bài. Vì vậy thầy, trò sa vào hỏi đáp về văn bản, sa vào bình giá mà không chịu đọc thành tiếng chính văn bản đó. Học sinh trường Ngô Gia Tự phần lớn là con em dân tộc kinh và một số dân tộc khác, cuộc sống còn khó khăn, còn một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con cái mình. Các em đọc còn yếu, phát âm chưa chuẩn, chưa biết ngắt, nghỉ hơi đúng, chưa biết thể hiện giọng đọc phù hợp với những tâm tư tình cảm hay các vấn đề khác cần biết trong văn bản. Trường lại thuộc địa bàn xã Đăk Ru, một xã đặc biệt khó khăn, Gv cũng ở nhiều vùng miền khác nhau trong cả nước về đây công tác, do đặc thù vùng miền mà có những sự khác biệt trong cách phát âm ( gọi là phương ngữ địa phương) nên việc hướng dẫn dạy học môn Tập đọc cũng tương đối khó khăn. Để khắc phục tình trạng này là một yêu cầu lâu dài và nóng bỏng, đòi hỏi người Gv phải xác định được nhiệm vụ của dạy đọc cần phối hợp nhịp nhàng cả việc đọc thành tiếng và việc “tìm hiểu bài”; có trách nhiệm trong việc hướng dẫn, giảng dạy Tập đọc cho học sinh, phải vận dụng tốt các phương pháp mới vào dạy đọc, phải có lòng say mê nhiệt huyết với công tác, biết quan sát, uốn nắn học sinh. Tạo cho các em có hứng thú học tập, giúp giờ học sôi nổi, có hiệu quả. Chính vì điều đó, trong quá trình dạy học, tôi đã không ngừng tích luỹ, bồi dưỡng kiến thức, học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, của bạn bè đồng nghiệp để giảng dạy môn Tập đọc ngày càng đạt hiệu quả cao và đã rút ra được một số kinh nghiệm thực tể trong giảng dạy phân môn Tập đọc. Qua điều tra thực tế, qua ý kiến của một số giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi thấy 100% HS thích môn Tập Đọc. 1.2 LỊCH SỬ ĐỀ TÀI. Đề tài “Phương pháp dạy đọc thành tiếng và đọc diễn cảm” tôi đã nghiên cứu từ đầu năm 2008 đến nay. Đề tài này ở trường Tiểu học Ngô Gia Tự chưa có ai nghiên cứu. Vì vậy tôi chọn đề tài này nghiên cứu. A. Mục đích nghiên cứu: - Tìm hiểu phương pháp dạy đọc thành tiếng và dạy đọc diễn cảm. - Nghiên cứu phương pháp dạy đọc thành tiếng và dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5. Từ đó rút ra được các mặt tích cực và khắc phục những mặt chưa đạt trong dạy đọc thành tiếng và dạy đọc diễn cảm. B: Khách thể và đối tượng nghiên cứu: - Chủ thể: “ Phương pháp dạy đọc thành tiếng và dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5”. - Khách thể: Học sinh lớp 5A trường TH Ngô Gia Tự – Đăk Ru – ĐăkR’lấp – Đăk Nông. C: Nhiệm vụ nghiên cứu: a. Tìm hiểu vấn đề đổi mới phương pháp dạy đọc thành tiếng và dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5. b. Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học. c. Nghiên cứu thực tiễn dạy đọc thành tiếng và dạy đọc diễn cảm ở tiểu học. d. Xây dựng một số biện pháp nhằm cải tiến cho vấn đề dạy đọc thành tiếng và dạy đọc diễn cảm. e. Thực nghiệm lấy kết quả và đánh giá. D. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu: - Do thời gian có hạn, năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên tôi chỉ nghiên cứu về: “ Phương pháp dạy đọc thành tiếng và dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5”. Lớp 5A trường TH Ngô Gia Tự – Đắk Ru – Đăk R Lấp – Đăk Nông. E. Phương pháp nghiên cứu: a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Đọc tài liệu, giáo trình có liên quan đến các vấn đề cần nghiên cứu như: Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 b. Phương pháp điều tra, quan sát. Trao đổi với giáo viên tiểu học về những khó khăn, thuận lợi khi tổ chức dạy đọc thành tiếng và dạy đọc diễn cảm ở trên lớp. c. Phương pháp thực nghiệm. Để kiểm tra tính khả thi và tác dụng của việc dạy đọc thành tiếng và dạy đọc diễn cảm và một số biện pháp mà bản thân đã đưa ra. d. Phương pháp nghiên cứu lí luận. e. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. g. Phương pháp dạy đọc thành tiếng. h. Phương pháp dạy đọc diễn cảm. - Nhóm lí luận: Tham khảo các tài liệu có liên quan. - Nhóm thực tiễn: Điều tra qua các giáo viên trong khối; dự giờ; khảo sát thực nghiệm; giảng dạy trực tiếp; tổng kết kinh nghiện và các phương pháp khác. 2. PHẦN NỘI DUNG: 2.1 THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH A. Đặc điểm trường tiểu học: Trường TH Ngô Gia Tự là một trường nằm trên địa bàn xã Đăk Ru, một xã đặc biệt khó khăn, có 11 lớp gần 332 HS. Có 20 cán bộ, giáo viên, công nhân viên, trong đó có 1 hiệu trưởng và 1 hiệu phó. Khối lớp 5 có 63 học sinh trong đó có 11 học sinh dân tộc. B. Tình hình đọc thành tiếng và đọc diễn cảm của HS trong khối: Qua khảo sát đầu năm ở lớp tôi chủ nhiệm và các lớp trong khối, kết quả như sau: Đọc thành tiếng: LỚP Đọc khá, giỏi Đọc đạt yêu cầu Đọc chưa đạt yêu cầu 5A 37% 42% 21% 5B 39% 38% 23% Đọc diễn cảm: LỚP Đọc khá, giỏi Đọc đạt yêu cầu Đọc chưa đạt yêu cầu 5A 27% 33% 40% 5B 24% 34% 42% Từ lớp 5, mức độ, yêu cầu đọc hoàn chỉnh hơn, năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng bộ phận cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát), đọc có ý thức (đọc hiểu) và đọc hay (đọc diễn cảm). - Với mục đích là như vậy, song thực tế HS dân tộc MNông thường phát âm sai dấu thanh hoặc bỏ dấu thanh. Ví dụ : Đoạn văn bản : “ Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta ”. Thì HS lại đọc (Dận ta cò mồt lòng nồng nàn yều nườc. Đò là mồt truyền thồng quỳ bàu cùa ta). Các em thường sử dụng thanh sắc đọc thành thanh huyền, thanh ngang đọc thành thanh nặng, thanh nặng đọc thành thanh sắc. Chính vì vậy mà yêu cầu thứ nhất trong đọc thành tiếng là đọc đúng không đạt. Từ đọc sai dẫn đến các em đọc không lưu loát, đọc ê a ngắc ngứ, rời rạc, không liền mạch, không toát lên được nội dung đoạn đọc làm cho người nghe cảm thấy khó chịu, khó hiểu. - Phần nhiều HS ở những vùng miền khác nhau nên cách phát âm còn mang đậm tiếng địa phương, không những phát âm sai dấu thanh mà còn sai cả âm đầu (ch/ tr; gi /d/ r), âm cuối ( n / ng; t / c; i / y) Ví dụ : Gần như đêm nào tôi cũng nghe thấy tiếng rao ấy : “Bánhgiòòò!” Tiếng rao đều đều, khan khan kéo dài trong đêm khuya tĩnh mịch, nghe buồn não ruột. Rồi một đêm vừa thiếp đi, tôi bổng giật mình vì tiếng la: “ Cháy! Cháy nhà!” ( Tiếng rao đêm – TV5 tập 2) HS đọc “ Gầng như... “ Bánhrò” Tiếng rao đều đều, khàng khàng, nghe buồng não ruộc. Rồi mộc đêm, vừa thiếp đi, tôi bổng giậc mình vì những tiếng la “ Chái! Chái nhà!” - Một số HS khác đọc không có ý thức tức là đọc không hiểu. HS đọc xong đoạn văn bản, GV hỏi nội dung HS không trả lời được. Thậm chí GV chỉ yêu cầu tìm các chi tiết nổi bật trong đoạn văn mà HS cũng không làm được. Luyện đọc thành tiếng không dừng lại ở việc luyện chính âm ( phát âm đúng các âm vị ) mà cần phải đọc đúng ngữ điệu, HS phải làm chủ các thông số âm thanh của giọng: tạo ra cường độ bằng cách điều khiển đọc to, nhỏ, nhấn giọng, lơi giọng, tạo ra tốc độ bằng cách diều khiển độ nhanh chậm và độ ngắt nghỉ của lời, tạo ra cao độ bằng cách nâng giọng , hạ giọng, tạo ra trường độ bằng cách kéo dài giọng hay không kéo dài giọng. Bên cạnh đó các em còn mắc phải một số lỗi khác: + Cách ngắt giọng đúng: Phần đa HS không làm chủ được chỗ ngắt giọng, ngắt giọng không đúng quan hệ ngữ nghĩa – ngữ pháp. Nhiều em cứ đọc một hơi mệt chỗ nào thì ngắt giọng chỗ đó, ví dụ ở việc lựa chọn cách ngắt. Ví dụ 3 “ Tiếng suối trong / như tiếng hát xa ” hay “ Tiếng suối / trong như tiếng hát xa ”( Cảnh khuya- TV3) là do cách hiểu tiếng (của suối trong tức là nước trong) như tiếng hát xa hay tiếng suối (âm thanh) trong trẻo như tiếng hát xa. Ví dụ : Bè đi / chiều thầm thì Gỗ / lượn đàn thong thả. ( Bè xuôi sông La – TV4 ) - Đó là cách ngắt nhịp đúng, tạo ra 3 cặp chủ - vị cho hai câu thơ sống động hơn với nhiều đối tượng được miêu tả, nhiều hoạt động và để không hạn chế thời gian “ bè đi ” vào buổi chiều mà tạo một kết hợp bất thường “ chiều thầm thì ” cho thời gian cất lên thành lời. - Nhưng HS không chú ý đế ... biết làm chủ ngữ điệu - tốc độ, cường độ, cao độ - để đọc diễn cảm. GV phải đọc đúng diễn cảm một cách chắc chắn, nghĩa là tất cả các lần đọc đều giống nhau. - Biết quan sát HS, biết nghe HS đọc có nghĩa là nhanh chóng nhận ra được những gì học sinh đọc đúng mẫu và những gì học sinh đọc sai lệch, từ đó giáo viên nhận xét cách đọc của học sinh một cách chính xác hơn. - Biết tái hiện lời đọc của HS trong thế đối chiếu với lời đọc mẫu. GV phải tạo điều kiện cho các em tự quan sát lời đọc của mình một cách khách quan. Chúng ta mô phỏng lại cách đọc của HS không phải để giễu cười mà với một thái độ chân thành, một mong mỏi tha thiết. - Biết phối hợp nhịp nhàng lời mô tả giọng đọc với làm mẫu: có sự hài hoà giữa những lời yêu cầu, chỉ dẫn về cách đọc và khả năng biểu diễn những yêu cầu, chỉ dẫn này bằng giọng đọc mẫu của GV. C. Tình tự các bước phải làm khi đọc diễn cảm: - GV tổ chức cho HS đàm thoại, nhận ra thể loại của văn bản, hiểu ý đồ của tác giả, thảo luận với HS để xác định giọng điệu chung của cả bài. - HS phân tích thể hiện, lập dàn ý và xác định giọng đọc của từng đoạn. - HS luyện tập để thể hiện giọng đọc của từng câu, đoạn, bài. Khi luyện tập GV cần chỉ ra những chỗ khó, những “điểm nút” trong bài đòi hỏi HS phải hiểu được mới tìm ra cách thể hiện điều đó trong giọng đọc. Để luyện đọc GV cần biết thị phạm để trình ra những cách đọc khác nhau trong thế đối lập để HS nhận ra được có cách đọc là đúng, có cách đọc là không đúng, có cách đọc là hay, có cách đọc là không hay. Cuối cùng HS đọc cá nhân. Ở nhiều bài có thể cho HS phân vai để làm sống lại những nhân vật của tác phẩm, để đọc phân biệt lời tác giả và lời nhân vật, phân biệt lời của các nhân vật khác nhau. D. GV phải có vốn sống, có năng lực cảm thụ văn học: - Muốn đọc thành tiếng được tốt, trước hết GV cần phải hiểu, cảm nhận được văn bản. Vốn sống và năng lực cảm thụ văn học sẽ giúp giáo viên thâm nhập vào tác phẩm, thấm đượm và tái hiện được hình tượng tác phẩm. E. Chuẩn bị cho việc đọc thành tiếng và đọc diễn cảm: - GV hướng dẫn HS chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc, HS phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách 30 – 35cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. HS phải bình tỉnh, tự tin, không hấp tấp.Giai đoạn đầu lớp 1, GV nên gọi HS lên bảng đọc để đối diện với tất cả các bạn - những người nghe. GV cần sửa cho HS tư thề đọc. - Hướng dẫn học sinh đọc với giọng đọc đủ để người ngồi cuối lớp cũng nghe được, không nên đọc quá nhỏ, nếu trong lớp bạn nào đọc quá nhỏ giáo viên cần phải luyện cho các em đọc to hơn hoặc đọc quá to thì làm cho cả người đọc và người nghe mệt mỏi, giáo viên cần điều chỉnh để các em đọc nhỏ lại. - Luyện đọc đúng là đọc một cách chính xác không sai lỗi bài tập đọc mà mình đang thực hiện đọc. - Luyện đọc đúng chính âm và làm chủ các thông số âm thanh. - Luyện đọc nhanh, đúng tốc độ và đọc hay diễn cảm. G. Xác định rõ mục đích và cách sử dụng đồ dùng dạy học hợp lý (đồ dùng đó là gì, được sử dụng nó vào lúc nào và cách sử dụng nó ra sao): Đa dạng hoá các hình thức dạy học, trong đó có: dạy học theo lớp, theo nhóm nhỏ, dạy học ở trong phòng học, ngoài vườn trường, đặc biệt khuyến khích tổ chức các trò chơi học tập để việc học tập gắn với đời sống thực tế, giảm bớt những căng thẳng, tạo hứng thú học tập cho HS. H. GV phải có phẩm chất đặc biệt, có cách cư xử đặc biệt đối với HS: Đó là thái độ nâng đỡ, khích lệ, thông cảm, luôn nhấn mạnh vào mặt thành công của trẻ. Đó là khả năng biết tự kìm chế, khả năng đồng cảm với HS, khả năng làm việc kiên trì, tỉ mỉ. Đó là khả năng biết tổ chức quá trình dạy học kết hợp với vui chơi. GV phải nắm được đặc điểm của HS, hình dung thấy hết những khó khăn của các em. GV tập cho mình cách nhìn: HS tiểu học em nào cũng ngoan, em nào cũng giỏi, em nào cũng cố gắng. Chỉ có em này ngoan, giỏi, cố gắng nhiều hơn, em kia ngoan, giỏi, cố gắng ít hơn mà thôi. GV phải biết khen ngợi, động viên khuyến khích trẻ em, khích lệ HS tích cực làm việc, giúp các em dễ dàng vượt qua khó khăn trong học tập chỉ nhờ vào cách chúng ta giao nhiệm vụ cho HS, Ví dụ: Nào bây giờ các con hãy chú ý nghe đây. Câu hỏi này hơi khó, ai mà trả lời được thì giỏi lắm đây v.vNhững lời kêu gọi, thúc dục như vậy mang tính chất thân mật, bạn bè, chúng sẽ kích thích hứng thú đọc của HS, tạo cho các em cảm thấy thoải mái, tự tin. GV cần luyện tập ngôn ngữ chuẩn, trong sáng, dễ hiểu, truyền cảm, tránh dùng lời lẽ xa lạ, nặng về giảng văn.(chúng ta có thể dựa vào mẫu phát âm chuẩn như phát thanh viên đài phát thanh, truyền hình trung ương, đài phát thanh, truyền hình thành phố Hồ Chí Minh.). Liên hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh về két quả học tập của học sinh. Khuyến khích học sinh tăng cường và tham gia đọc các truyện sách báo. 2.3 KẾT QUẢ: Qua một thời gian nghiên cứu và thử nghiệm nhìn chung học sinh lớp 5 có tiến bộ hơn trong đọc thành tiếng và đọc diễn cảm. Các em đã đọc nhanh hơn và biết cách nhấn giọng, lên giọng cho phù hợp với nội dung. Đặc biệt một số em còn đọc tốt lời thoại giữa các nhân vật. Kết quả cụ thể như sau: Đọc thành tiếng: Lớp Đọc khá , giỏi Đọc đạt yêu cầu Đọc chưa đạt yêu cầu 5A 63% 35% 2% 5B 65% 33% 2% Đọc diễn cảm: Lớp Đọc khá, giỏi Đọc đạt yêu cầu Đọc chưa đạt yêu cầu 5A 40% 50% 10% 5B 42% 50% 8% 3. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: A. Kết luận. Hoạt động dạy học phân môn Tập Đọc nói chung và dạy đọc thành tiếng, đọc diễn cảm là một trong những mục tiêu quan trọng trong chương trình giáo dục toàn diện cho HS. Để thực hiện tốt “ Phương pháp dạy đọc thành tiếng và đọc diễn cảm theo chương trình đổi mới” là một trong những mục tiêu quan trọng nhất. Chương trình phân môn Tập Đọc ở tiểu học, đã hướng dẫn, củng cố và nâng cao khả năng đọc thành tiếng, đọc diễn cảm cho HS, đi song song với yêu cầu nội dung chương trình thì đòi hỏi người giáo viên phải chú ý phương pháp giảng dạy phù hợp, cách tổ chức hoạt động trong giờ học luôn luôn mới mẻ để tiết dạy đạt hiệu quả cao. Muốn thực hiện tốt mục tiêu của môn học người giáo viên phải biết sáng tạo, biết tìm tòi, khai thác những mặt mạnh ở HS và những đặc trưng của bộ môn. Người giáo viên phải có lòng say mê, nhiệt huyết với nghề, yêu nghề mến trẻ, gần gủi, quan tâm, dìu dắt các em, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú học tập. Trong giờ học, giáo viên cần khuyến khích động viên các em nhiệt tình tham gia mọi hoạt động luyện đọc, đọc diễn cảm. GV luôn thay đổi hình thức tổ chức lớp để tránh sự tẻ nhạt nhàm chán trong giờ học. Đặc biệt người GV luôn luôn khuyến khích sự sáng tạo, tính tự giác luyện tập, sự tự tin của HS. Người GV là người tổ chức, người dẫn chương trình hấp dẫn, đa tài, nhiệt huyết với công việc để từ đó không ngừng phấn đấu vươn lên, hoàn thiện về mọi mặt, thành thục về phương pháp, giỏi vê chuyên môn. Trong quá trình công tác tại trường tiểu họcNgô Gia Tự, qua tìm hiểu ý kiến của đồng nghiệp và qua nghiên cứu sách giáo khoa, thiết kế bài dạy, sách giáo viên v. vtôi đã hiểu rõ mục tiêu, yêu cầu chương trình đã định. Việc áp dụng phương pháp mới là một yêu cầu không thể thiếu trong mỗi tiết dạy nói chung và trong dạy đọc thành tiếng, đọc diễn cảm của phân môn Tập Đọc nói riêng đối với mỗi người giáo viên. Trong chương trình 175 tuần, được sự quan tâm của các cấp, sự nắm bắt, thực hiện kịp thời của giáo viên, môn học thực sự thay đổi, có nhiều chuyển biến tích cực. Với phương pháp dạy đọc thành tiếng, đọc diễn cảm theo chương trình đổi mới, ứng với một nội dung khi truyền tải kiến thức mà trong một tiết dạy giáo viên đã áp dụng, không những đem lại kết quả khả quan cho môn học mà còn góp phần xây lên những lâu đài kiến thức thiết thực hơn cho học sinh. Từ đó tạo cho các em thói quen tự tin, tự giác, hăng hái trong việc luyện tập, tu dưỡng đạo đức, gắn bó với nhau trong các sinh hoạt tập thể, biết nhiều về thế giới xung quanh, cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên, tình cảm con người bằng các hình tượng văn học trong các văn bản được đọc trong, ngoài chương trình. Đúng vậy, việc thực hiện giảng dạy đọc thành tiếng, đọc diễn cảm trong phân môn Tập Đọc với phương pháp mới là một mục tiêu quan trọng nhất quyết định sự thành công. Với chương trình và phương pháp mới, các em tiếp thu bài nhanh hơn, có nhiều niềm vui hơn trong cuộc sống, say mê học tập và có chí vươn lên trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Chương trình và phương pháp mới góp phần giáo dục và đào tạo những con người trong thời đại mới. GV phải là người tích cực rèn luyện, học tập tích luỹ kinh nghiệm sau mỗi lần giảng dạy và hơn thế nữa phải thực sự yêu nghề, có tâm huyết với nghề để tìm ra những phương pháp mới hiệu quả hơn, thiết thực hơn, phù hợp với trình độ học sinh từng vùng. Tôi mong rằng Phòng GD-ĐT, Ban giám hiệu nhà trường, cùng các bạn đồng nghiệp xem xét, góp ý kiến giúp tôi, để sáng kiến kinh nghiệm này của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi chân thành cảm ơn! B. Ý kiến đề xuất. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng hoàn thiện và nâng cao của bộ môn Tập Đọc theo chương trình đổi mới, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau: Cần có máy cát-séc, máy chiếu phục vụ môn học. Có tranh, ảnh in, đep, phù hợp với từng bài, kích thước đảm bảo cho tất cả học sinh trong lớp nhìn thấy. Cần tổ chức thi đọc diễn cảm trong các ngày hội lớn Rất mong ban giám hiệu nhà trường và các cấp quản lí giáo dục quan tâm, đáp ứng một phần nào những yêu cầu của môn học tạo điều kiện cho các em học tập, mở mang kiến thức, áp dụng tốt vào cuộc sống của chính các em. Người viết sáng kiến: Nguyễn Ngọc Hạnh TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Hỏi đáp về phương pháp dạy môn tập đọc ở tiểu học [2] SGK Tiếng Việt lớp 5 tập 1, 2 [3] Sách giáo viên Tiếng Việt 5 [4] Thiết kế bài dạy môn Tiếng Việt 5 [5] Một số tài liệu có liên quan khác MỤC LỤC STT NỘI DUNG TRANG 1 PHẦN I: MỞ ĐẦU 1 2 1.1. lý do chọn đề 1 - 3 3 1.2. Lịch sử đề tài . 3 4 A. Mục đích nghiên cứu. 3 5 B. Khách thể và Đối tượng nghiên cứu. 3 - 4 6 C. Nhiệm vụ nghiên cứu. 4 7 B. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu. 4 8 C. Phương pháp nghiên cứu: 4 - 5 9 PHẦN II: NỘI DUNG 2.1. Thực trạng tình hình. 5 - 14 10 2.2. Giải pháp. 14 - 17 11 2.3. Kết quả . 17 - 18 12 3. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 18 - 20 13 2. Ý kiến đề xuất. 20 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN: NGUYỄN NGỌC HẠNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHƯƠNG PHÁP DẠY ĐỌC THÀNH TIẾNG VÀ ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH LỚP 5 ĐẮK NÔNG 2010
Tài liệu đính kèm: