Sáng kiến kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực,tự giác học tập của học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực,tự giác học tập của học sinh

 Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước.Giáo dục (GD) cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản cần thiết về khoa học và cuộc sống. Mặt khác giáo dục còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh(HS), đặc biệt là Giáo dục Tiểu học, đây là bậc học mang tính chất nền móng để các em học tiếp các bậc học cao hơn.

 Vậy để GD có hiệu quả và đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng dạy chúng ta cần biết lựa chọn phương pháp dạy tối ưu nhất, phù hợp với phương pháp đổi mới, phù hợp với mục tiêu và nội dung của bài học. Song để đi đến thành công GD đòi hỏi mọi người phải biết và không ngừng nổ lực phấn đấu, sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư thích đáng vào công việc của mình. Đây là một công việc vừa mang tính GD vừa mang tính nghệ thuật. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã ghi rõ ở Nghị quyết TW II là “Nâng cao chất lượng toàn diện ở Tiểu học”. Bộ GD đã đề ra yêu cầu của việc dạy học hiện đại là tăng cường hoạt động tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Đổi mới về phương pháp dạy học ở tất cả các môn học thông qua việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 5 .Đó là yêu cầu tất yếu nhằm nâng cao chất lượng GD của nhà trường tiểu học ở trong tình hình hiện nay. A.KO Men Xi đã viết “GD có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách.hãy tìm ra phương pháp cho gíáo viên dạy ít hơn, học sinh hiểu nhiều hơn”.

 

doc 12 trang Người đăng huong21 Lượt xem 1002Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực,tự giác học tập của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN KRÔNG NĂNG
 @ &'
 ******************** 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
DẠY HỌC PHÁT HUY TÍNH TÍCH
CỰC,TỰ GIÁC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN TRUNG THÔNG
ĐƠN VỊ: TRƯỜNG T-H NGUYỄN THỊ MINH KHAI
Krông Năng: 2012
SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐĂK LĂK
PHÒNG GD & ĐT HUYỆN KRÔNG NĂNG
TRƯỜNG T - H NGUYỄN THỊ MINH KHAI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM DẠY HỌC
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ GIÁC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
 I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
 Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước.Giáo dục (GD) cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản cần thiết về khoa học và cuộc sống. Mặt khác giáo dục còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh(HS), đặc biệt là Giáo dục Tiểu học, đây là bậc học mang tính chất nền móng để các em học tiếp các bậc học cao hơn.
 Vậy để GD có hiệu quả và đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng dạy chúng ta cần biết lựa chọn phương pháp dạy tối ưu nhất, phù hợp với phương pháp đổi mới, phù hợp với mục tiêu và nội dung của bài học. Song để đi đến thành công GD đòi hỏi mọi người phải biết và không ngừng nổ lực phấn đấu, sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư thích đáng vào công việc của mình. Đây là một công việc vừa mang tính GD vừa mang tính nghệ thuật. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã ghi rõ ở Nghị quyết TW II là “Nâng cao chất lượng toàn diện ở Tiểu học”. Bộ GD đã đề ra yêu cầu của việc dạy học hiện đại là tăng cường hoạt động tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Đổi mới về phương pháp dạy học ở tất cả các môn học thông qua việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 5 .Đó là yêu cầu tất yếu nhằm nâng cao chất lượng GD của nhà trường tiểu học ở trong tình hình hiện nay. A.KO Men Xi đã viết “GD có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách...hãy tìm ra phương pháp cho gíáo viên dạy ít hơn, học sinh hiểu nhiều hơn”.
 II.PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
 -Trong năm học này, tôi đã làm công tác giảng dạy và tiến hành nghiên cứu 51 em học sinh các lớp : 4A; 4B; trường Tiểu học Lê Thế Tiết, bên cạnh đó tôi còn học hỏi kinh nghiệm của một số anh chị em đồng nghiệp.
 -Cụ thể tình hình các lớp như sau:
 + Lớp 4A,Tổng số học sinh: 33 em .Trong đó: 13 nữ; 1 học sinh dân tộc; 1 học sinh nữ dân tộc; 1 học sinh khuyết tật.
 + Lớp 4B,Tổng số học sinh:18 em. Trong đó: 7 nữ; 0 học sinh dân tộc; 0 học sinh nữ dân tộc; 0 học sinh khuyết tật.
 -Phần lớn các em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, một số bố mẹ ít quan tâm đến viêc học hành của con cái, đồ dùng sách vở còn thiếu thốn.
 III.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN:
 Với nhu cầu của một xã hội hoá GD đòi hỏi ngành GD phải đổi mới phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Nhìn lại việc học của con em ở địa phương, tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện rất ít, điều kiện học tập còn nhiều thiếu thốn. 
 Các em chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên không ham học. Là một người đứng trong ngành nghề dạy học tôi luôn băn khoăn là làm thế nào để phát huy tính tích cực , chủ động, tự giác của học sinh trong học tập. Đây là một vấn đề nóng bỏng cần phải thực hiện nhanh và đúng cách để những thế hệ do chúng ta đào tạo là những người làm chủ tương lai, đất nước, biết xây dựng quê hương và đưa trình độ hiểu biết của toàn dân đi lên sánh được với các nước phát triển trên thế giới. Đặc biệt là giáo dục ở các vùng miền nông thôn và miền núi. Qua đổi mới các phương pháp dạy học sẽ giúp các em học sinh nông thôn, dân tộc mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết cách tự đánh giá việc học của mình cũng như biết đánh giá kết quả học tập của các bạn khác. Từ đó các em có tính chủ động hơn trong học tập và biết phấn đấu thi đua nhau để việc học có kết quả cao hơn.
 IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
 1.Phương pháp quan sát:
Đây là phương pháp giúp ta quan sát thái độ, hành vi của học sinh, phát hiện ra những hành vi, cử chỉ của học sinh trong học tập, sinh hoạt...Để phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh.
 2.phương pháp thực nghiệm:
 Khi tiến hành nghiên cứu tạo ra một số tình huống, những hoàn cảnh, những điều kiện rất gần gũi của cuộc sống để đưa đối tượng vào vấn đề, từ đó nghiên cứu thu lại được những tư liệu cần thiết. Đây là một phương pháp hết sức quan trọng và rất cần thiết trong nghiên cứu khoa học.
 3.Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
 Qua phương pháp này làm cho người giáo viên thấy được những thiếu 
 sót và những chỗ hổng của học sinh để có phương pháp làm cho hoạt động của mình đạt chất lượng cao.
 4.Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm:
 Nhờ phương pháp này mà người nghiên cứu có thể tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm của giáo viên chỉ đạo về việc phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh qua các mặt hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt tập thể và hoạt động ngoại khoá, từ đó rút ra bài học và nêu được những biện pháp khắc phục và đề xuất.
 5.Phương pháp đàm thoại:
 Với học sinh tiểu học, phương pháp đàm thoại trò chuyện là một hình thức tốt nhất để giáo viên có thể gần gũi các em, đồng thời thăm hỏi trò chuyện với một số phụ huynh học sinh.Qua đó chúng ta có thể biết tâm sự, tình cảm, nguyện vọng của các em về việc học ở lớp cũng như việc học ở nhà của các em như thế nào? Để từ đó, giáo viên có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm làm cho người dạy đạt kết quả tốt nhất.
 6.Phương pháp thống kê, tính toán:
 Phương pháp thống kê tính toán, qua những thông tin tài liệu thu thập được, tôi đã vận dụng phương pháp này để thống kê lại tình hình và tính toán các số liệu cần thiết để biết được chất lượng học tập của học sinh thời gian sau so với thời gian trước như thế nào?
 Ngoài các phương pháp trên tôi còn sử dụng một số phương pháp khác nữa trong quá trình nghiên cứu.
 V.NỘI DUNG:
 1.Tình trạng của vấn đề đặt ra và sự cần thiết để tiến hành thực hiện đề tài:
 a.Tình trạng chung: Hiện nay trình độ dân trí của nước ta nói chung và dân trí ở các vùng nông thôn và miền núi nói riêng đang còn rất thấp so với các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới.Vậy làm thế nào để giải quyết vấn đề đó? Để nâng cao trình độ nhận thức của người dân thì những người đứng trong ngành giáo dục phải có trách nhiệm khá nặng nề, mà muốn giải quyết được vấn đề thì đòi hỏi phải đổi mới chương trình SGK, đổi mới PPDH cũng như hình thức tổ chức dạy học để phù hợp với đối tượng, phù hợp với sự phát triển của xã hội.
 b.Tình hình địa phương: Cam Thành là một xã miền núi tuy có các điều kiện khá thuận tiện so với một số xã khác trong huyện như : Cam Chính, Cam nghĩa, Cam Tuyền...Song trình độ dân trí ở đây còn thấp, điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn...Nên sự quan tâm đến việc học tập của con em trên địa bàn của một số gia đình còn nhiều hạn chế.
 c.Tình hình trường, lớp: Lê Thế Tiết là một ngôi trường tuy mới được thành lập được 16 năm .Trường gồm có hai khu vực nhưng nằm trên trục đường giao thông nên khá thuận lợi cho việc đến trường của các em HS .Tuy được Plans tài trợ về cơ sở vật chất nhưng trường vẫn còn có nhiều khó khăn .
 Mặt khác, Trường đã đón nhận các em HS trong và ngoài địa bàn đến học ,trong đó có cả HS dân tộc ở huyện ĐaKrông .Nhìn chung tình hình học sinh đầu năm đến trường còn nhiều khiếm khuyết về mọi mặt: DDHT và sách vở còn nhiều thiếu thốn , thiếu sự quan tâm của phụ huynh, ý thức học tập chưa cao, một số HS dân tộc còn rụt rè, thiếu tự tin trước đám đông...
 2.Tính thuyết phục của đề tài:
 Trong tình hình hiện nay, việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm nó đòi hỏi ở học sinh một yêu cầu cao là học sinh phải độc lập, tự giác,sáng tạo trong học tập. Qúa trình dạy học này gồm hai mặt quan hệ hữu cơ với nhau: Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Người giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy với hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo, tự tổ chức. Điều cần chú ý trong học tập là phải hoạt động một cách tích cực chủ động có nhận thức sâu sắc. Bằng hoạt động học tập học sinh tự hình thành và phát triển nhân cách của mình không ai có thể làm thay được.
 Như vậy, dạy học phải xây dựng trên nhu cầu hứng thú, thói quen, năng lực của học sinh ở các trình độ khác nhau nhằm làm cho học sinh lĩnh hội được những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ giá trị cần thiết, phát huy được đầy đủ năng lực của các em.Vai trò của giáo viên là truyền đạt tri thức, là người hướng dẫn, người cố vấn cho học sinh trong việc học tập. Chỉ có sự phối hợp hữu cơ và sự liên hệ qua lại chặt chẽ giữa những tác động bên ngoài của giáo viên, biểu lộ trong việc trình bày tài liệu chương trình và tổ chức công tác học tập của học sinh với sự căng thẳng trí tuệ “bên trong” của các em mới tạo được cơ sở của sự học tập có hiệu quả. Tính tích cực nhận thức của bản thân các em càng cao thì sự cân bằng năng lượng sinh hoá cơ sở tư duy sẽ càng phong phú và những kiến thức được lĩnh hội càng sâu sắc, đầy đủ hơn và vững chắc hơn.
 3.Các giải pháp:
 Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng thú học tập cho học sinh thì đòi hỏi ở người giáo viên rất nhiều điều.Trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ tức là phải có năng lực sư phạm.
 Vậy thế nào được gọi là năng lực sư phạm? Năng lực sư phạm là những đặc điểm tâm lí mà nó giúp cho giáo viên hoạt động có hiệu quả, năng lực sư phạm gồm:
 *Năng lực khoa học
 *Năng lực hiểu học sinh
 *Năng lực ngôn ngữ
 *Năng lực tổ chức
 *Năng lực phân phối chú ý
 *Năng lực trình bày bài giảng
 *Óc tưởng tượng sư phạm
 Ngoài ra GV muốn phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh thì cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thích hợp. Hiện nay, để tiến kịp với thời đại thì cần thay đổi một số phương pháp để phát huy tính tích cực của học sinh để phù hợp với từng nội dung môn học, từng đối tượng và trong quá trình dạy học tôi đã sử dụng linh hoạt các phương pháp sau để phát huy tính tích cực, tự giác,độc lập của học sinh trong học tập,cụ thể là:
 1.Phương pháp thuyết minh. 9.Phương pháp trò chơi học tập.
 2.Phương pháp đàm thoại. 10.Phương pháp quan sát.
 3.Phương pháp thảo luận. 11.Phương pháp thí nghiệm.
 4.Phương pháp hỏi đáp. 12.Phương pháp nêu vấn đề.
 5.Phương pháp tìm tòi. 13.Phương pháp giải quyết vấn đề.
 6.Phương pháp  ... sinh để thăm dò quản lí việc học tập của các em.
 -Thường xuyên đến thăm gia đình học sinh, đặc biệt là những em cá biệt, 
 những em yếu kém để phối hợp giáo dục có hiệu quả, phải có thông tin thường xuyên giữa gia đình và giáo viên chủ nhiệm.
 -Phát huy các phong trào học theo nhóm nhỏ (những em nhà ở gần nhau).
 b.Đối với việc học ở lớp:
 -Mượn thư viện của trường: Sách,đồ dùng học tập cho những học sinh còn thiếu.
 -Duy trì nề nếp kiểm tra bài cũ, chữa bài tập thường xuyên với hình thức giáo viên hoặc cán sự lớp theo dõi kiểm tra.
 -Kiểm tra thường xuyên về tinh thần, ý thức chuẩn bị DDHT của các em thông qua tổ trưởng, lớp trưởng.
 -Có hình thức nhắc nhở , khen thưởng cụ thể, kịp thời và hợp lí. Động viên, khuyến khích kịp thời những em chăm học và nhắc nhở những em lười học và không chú ý trong giờ học.
 -Câu hỏi kiểm tra ngắn gọn, sát nội dung bài học và phù hợp với ba đối tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình để học sinh nắm bài được tốt.
 -Thường xuyên tổ chức cho học sinh hoạt động và thảo luận theo nhóm, tổ chức trò chơi hoặc sắm vai tuỳ theo môn học, bài học.
 -Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách nêu gương và thi đua giữa các tổ, nhóm hoặc giữa các cá nhân...
 Bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu vào các buổi nghĩ trong tuần.
 -Thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực cụ thể từng môn.
 *Đối với môn toán:
 -Khi hướng dẫn HS trả lời bài cũ: GV yêu cầu HS trả lời ngắn gọn, nắm vững kiến thức trọng tâm, trả lời hoặc làm bài tập có liên quan đến kiến thức đã học, hoàn thành bài với phép tính dễ hiểu với bước giải nhanh nhất.
 -Khi hướng dẫn học bài mới ở nhà: GV yêu cầu HS nghiên cứu bài tập ở nhà trước, đọc và tập làm một số bài tập trong sách giáo khoa.
 -Khi đến lớp: GV sử dụng nhiều phương pháp như:Trực quan, dàm thoại , thuyết trình, thực hành. Bởi vì học sinh tiểu học, tư duy của các em là trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng. Do đó, GV phải sử dụng triệt để các DDDH. Bên cạnh đó GV nên dành nhiều thời gian cho HS thực hành nhằm phát huy óc tưởng tượng, tư duy sáng tạo của các em. Sau mỗi dạng bài chúng ta nên cho HS chốt kiến thức bài đó.
 -Tạo hứng thú cho các em bằng cách:Tổ chức thi giải toán nhanh; đố vui để học hoặc trò chơi học tập; thi điền đúng điền nhanh kết quả giữa các cá nhân , giữa các tổ, nhóm...Sau đó cho học sinh cả lớp nhận xét, đánh giá, GV bổ sung và tuyên dương, khen thưởng.
 *Đối với môn tiếng việt:
 -Khi hướng dẫn học sinh trả lời bài cũ: Yêu cầu học sinh đọc bài và trả lời câu hỏi ngắn gọn, đúng nội dung và đảm bảo kiến thức trọng tâm, mức độ hoàn thành từ 50% trở lên.
 -Khi hướng dẫn HS học bài mới ở nhà, GV yêu cầu:
 +Đối với phân môn tập đọc: Yêu cầu HS đọc bài trước, tìm hiểu kĩ cách đọc, tập đọc diễn cảm và trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa.
 +Đối với phân môn chính tả: Yêu cầu học sinh đọc trước bài cần viết, tập chép bài đó vào vở ở nhà.
 +Đối với phân môn Tập làm văn: Yêu cầu HS đọc đọc phần nhận xét và trả lời các câu hỏi để tự rút ra bài học và áp dụng bài học đó để làm các bài tập phần luyện tập.
 +Đối với phân môn Luyện từ và câu: Yêu cầu HS đọc đọc phần nhận xét và trả lời các câu hỏi để tự rút ra bài học và áp dụng bài học đó để làm các bài tập phần luyện tập.
 -Khi dạy bài mới: GV sử dụng triệt để các ĐDDH có liên quan đến bài học, sử dụng phương pháp: Trực quan; đàm thoại; giảng giải; hỏi đáp; thực hành; phân tích; tổng hợp; tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm và hoạt động sắm vai...
 Đặc biệt phương pháp trực quan, hoạt động nhóm và hoạt động sắm vai giúp cho HS có hứng thú học tập và giúp cho học sinh học sôi đông hơn. Từ đó tăng hiệu quả giờ học, còn phương pháp thực hành thì giúp các em biết vận dụng kiến thức vào thực tế và củng cố kiến thức cho các em.Tạo hứng thú cho các em bằng phương pháp nêu gương, thi đua giữa các cá nhân, giữa các nhóm, tổ... qua các trò chơi học tập...
 *Đối với môn tự nhiên và xã hội (Khoa học, Lịch sử, Địa lí):
 -Khi hướng dẫn học sinh trả lời bài cũ: GV yêu cầu HS trả lời ngắn gọn và đúng trọng tâm, mô tả thí nghiệm rõ ràng .
 -Hướng dẫn học bài mới ở nhà: GV yêu cầu HS quan sát tranh, đọc trước bài, nắm chắc ý chính, trả lời hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa, tập làm thí nghiệm liên quan đến bài học sau.
 -Khi giảng bài mới: GV sử dụng tích cực hoạt động nhóm, thảo luận nhóm, GVchỉ là người tổ chức còn HS là người thực hiện.
 -Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách: Tổ chức học tập theo nhóm, tổ chức thi đua giữa các nhóm, tổ chức các trò chơi học tập, động viên, khen thưởng HS kịp thời, đúng lúc.
 5.Kết quả áp dụng đề tài:
 Ở trường Tiểu học hiện nay nói chung và lớp 4A; 4B; tôi đang nghiên cứu nói riêng, với PPDH mới kết hợp với hình thức tổ chức dạy học mới (Dạy học cá nhân, theo nhóm, theo lớp, dạy học ngoài trời, tham quan, trò chơi học tập..) đã làm cho HS học tập một cách tích cực, tự giác, độc lập và sáng tạo.Mặt khác còn kích thích được phong trào thi đua học tập trong lớp . Do đó, kết quả mang lại rất khả quan; nhiều em rụt rè nay đã hăng say phát biểu xây dựng bài, lớp học sôi nổi, HS hứng thú, tiếp thu kiến thức nhanh chóng, DH theo hướng đổi mới sẽ huy động được năng lực, nghệ thuật sư phạm của GV. Thực tế cho thấy rằng người GV không chỉ cung cấp cho HS những tri thức, kĩ năng cần thiết mà còn truyền đến cho các em cả lương tâm, tình cảm và trách nhiệm của chính mình.
*Kết quả khảo sát học kì I :
 Môn
 Giỏi
 khá
 Trung bình
 Yếu
 SL
 %
 SL
 %
 SL
 %
 SL
 %
Tiếng Việt
31
60,8
13
25,5
7
13,7
0
0
Toán
24
47,1
23
45,1
4
 7,8
0
0
Khoa học
32
62,8
17
33,3
2
 3,9
0
0
L.sử-Đ. lí
38
74,6
 9
17,6
4
 7,8
0
0
*Kết quả khảo sát học kì II :
 Môn
 Giỏi
 khá
 Trung bình
 Yếu
 SL
 %
 SL
 %
 SL
 %
 SL
 %
Tiếng Việt
36
70,6
12
23,5
 3
5,9
 0
0
Toán
28
54,9
20
39,2
 3
5,9
 0
0
Khoa học
 39
76,5
11
21,6
 1
1,9
 0
0
L.sử -Đ. lí
36
70,6
11
21,6
 4
7,8
 0
0
 VI. PHẦN TỔNG KẾT:
 1. Bài học kinh nghiệm:
 Qua những lần đi tìm hiểu thực tế hoàn cảnh gia đình HS và đặc biệt là những giờ lên lớp giảng dạy. Bản thân tôi đã rút ra cho mình những bài học bổ ích.
 Dạy học vừa mang tính khoa học , vừa mang tính nghệ thuật. Muốn dạy học có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đào tạo hiện nay của Đảng và Nhà nước. Đòi hỏi người GV phải nổ lực ,sáng tạo, không ngừng cải tiến phương pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy.Thực hiện tốt chủ đề năm học: “Môi trường thân thiện ; Học sinh tích cực”.
 a.Về công tác giảng dạy:
 Muốn nâng cao hiệu quả và học tập hứng thú trong quá trình giảng dạy, đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị: kế hoạch dạy học, hệ thống câu hỏi: 
 -Thâm nhập kĩ giáo án, hiểu rõ ý đồ sách giáo khoa .
 -Có thiết kế khoa học, hệ thống câu hỏi ngắn gọn rõ ràng dễ hiểu.
 -Lựa chọn phương pháp dạy học, có hiểu quả.
 -Sử dụng tốt các câu chuyển ý, chuyển đoạn, tạo ra sự liên kết chặt chẽ,lô gic của bài dạy.
 -Sử dụng tối đa DDDH và có hiệu quả trong từng tiết dạy, trong từng môn học.
 -GV phải có vốn hiểu biết nhất định và kiến thức xã hội.
 -GV cần tạo điều kiện để HS tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức.
 -Thực hiện tốt chỉ thị “Hai không” của Bộ GDDT; bám sát chủ đề năm học để lên kế hoạch tháng, tuần cho phù hợp và khoa học.
 Để đạt được những mong muốn đó, bản thân tôi ngay từ bây giờ tôi xác định rằng muốn trở thành một người GV thực sự thì trước hết phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, lòng say mê nghề nghiệp và ý chí quyết tâm cao. Phải có ý thức trách nhiệm đối với bản thân, đối với nghề nghiệp và xã hội.
 Để chuẩn bị cho một giờ lên lớp, GV cần phải chuẩn bị rất chu đáo về mọi công việc như: DDDH, giáo án và thâm nhập giáo án một cách kĩ càng. Khi đứng lớp phải bình tĩnh, tự tin, tác phong nhanh nhẹn, ngôn ngữ truyền đạt rõ ràng để làm sao hướng đẫn HS cho hiểu nội dung bài một cách dễ dàng.Đồng thời khai thác nội dung để phát huy tính sáng tạo của HS khá ,giỏi.
 b.Về công tác chủ nhiệm:
 GV chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng, GV chủ nhiệm thường là người dạy chủ yếu của lớp, đồng thời tổ chức lãnh đạo, điều hành, kiểm tra đánh giá mọi hoạt động và mối quan hệ ứng xử trong phạm vi lớp mình phụ trách, nhằm hình thành nhân cách của HS. Với vai trò, vị trí như vậy GV chủ nhiệm còn là cầu nối liền giữa nhà trường với đời sống xã hội.
 Để trở thành người GVCN giỏi thì ngoài những công việc trên, người GV phải rèn cho mình những năng lực sau:
 -Phải quan tâm chăm sóc, gần gũi với học sinh.
 -Phải xây dựng nề nếp học tập tốt, có quy định về nội quy của lớp.
 -Phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các em thực hiện tốt nội quy,nề nếp của trường, lớp.
 -Xây dựng và phát triển quan hệ, kết hợp với lực lượng giáo dục trong và
 ngoài nhà trường theo phương châm xã hội hóa giáo dục nhằm mục tiêu giáo dục học sinh.
 Thông thường trẻ ở Tiểu học tin tưởng tuyệt đối vào GV, đặc biệt là GVCN. Do đó phẩm chất và năng lực của GVCN là nhân tố hết sức quan trọng đối với việc đảm bảo chất lượng giáo dục nói chung.
 2.Kiến nghị đề xuất:
 a.Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo:
 -Cung cấp kịp thời việc đổi mới phương pháp hoạt động.
 -Nên duy trì thường xuyên tổ chức hội thảo, chuyên đề về công tác dạy học.
 b.Đối với nhà trường:
 -Quán triệt hơn nữa tinh thần học tập của học sinh.
 -Có thêm nhiều sách tham khảo.
 c.Đối với địa phương, gia đình:
 -Xã phải có biện pháp cứng rắn đối với những HS thường xuyên nghỉ học hay bỏ học.
 -Xã cũng nên có quỹ khuyến học cho những HS vượt khó, HS có hoàn cảnh khó khăn.
 -Gia đình phải chú trọng quan tâm đến việc học hành của con cái nhiều hơn.
 -Gia đình cần dành nhiều thời gian giám sát việc học ở nhà của con em.
 -Cần mua sắm sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh đầy đủ.
 Vì điều kiện, thời gian và khả năng có hạn, chắc chắn đề tài có phần chưa thoả đáng, bản thân tôi mong có sự góp ý bổ sung của quý cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp.
 Để hoàn thành đề tài này tôi xin chân thành cảm ơn BGH nhà trường cùng các bạn đồng nghiệp trường TH Lê Thế Tiết, tập thể phụ huynh lớp 4A; 4B; 2A đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình nghiên cứu.
 VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.GD học (Nguyển Sinh Huy-NXBGD- 1997)
2.Tâm lí học (Phạm Minh Hạc -NXBGD- 1996)
3.Luật giáo dục (NXB Chính trị Quốc Gia-1998)
4.Dự án GD tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (Bộ GDSX năm 2005)
5.Chuyên đề : Một số PP và Hình thức tổ chức dạy học (Nguyễn Đức Hoành -2006)
 Xin chân thành cảm ơn.
 NGƯỜI THỰC HIỆN:
 Trần Thị Nam Anh

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN Phat huy tinh tich cuc tu giac hoc tap cua HS.doc